Tin tức
on Wednesday 17-07-2019 8:24am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Phạm Hoàng Huy – IVFMD Phú Nhuận
Kết quả của thụ tinh trong ống nghiệm với chuyển phôi tươi đã được cải thiện đáng kể so với những ngày đầu thực hiện. Kích thích buồng trứng giúp làm tăng số lượng noãn thu nhận được. Mặc dù số lượng noãn thu được tăng lên, điều này không phải lúc nào cũng giúp cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng (CPR) và tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR).
Một nghiên cứu hồi cứu cỡ mẫu lớn với dữ liệu của SART trên 15.803 bệnh nhân đã được công bố trên tạp chí Fertility and Sterility. Nghiên cứu được thiết kế để xem xét mối liên hệ giữa số lượng noãn thụ tinh 2PN và tỉ lệ thai lâm sàng trong lần chuyển phôi tươi đầu tiên với một phôi nang. Kết cục chính của nghiên cứu là tỉ lệ thai lâm sàng (CPR), tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR) và tỉ lệ sẩy thai. Hồi quy logistic được sử dụng để điều tra mối liên quan giữa số lượng noãn thụ tinh và từng kết quả.
Kết quả của nghiên cứu: số lượng noãn thu nhận được trung bình là 15, và số lượng noãn thụ tinh trung bình là 9. CPR là 57%, LBR là 49% và tỉ lệ sẩy thai là 13%. Dữ liệu hồi quy cho thấy số lượng noãn thụ tinh và CPR có mối quan hệ không tuyến tính, có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001): CPR tăng 8% cho mỗi noãn bào thụ tinh thêm cho đến chín noãn bào (OR 1,08 95%CI 1,07 - 1,10); CPR giảm 9% cho mỗi noãn bào thụ tinh thêm sau chín noãn bào (OR 0,91 95%CI 0,89 - 0,94). Tương tự, LBR cao hơn 8% cho mỗi noãn bào thụ tinh bổ sung đến chín (OR 1,08; 95%CI 1,06 – 1,10) và giảm 8% cho mỗi noãn bào bổ sung thêm sau chín (OR 0,92; 95% CI 0,90 – 0,94). Không có mối liên hệ giữa số lượng noãn thụ tinh và tỉ lệ sẩy thai.
Nghiên cứu này đã chứng minh rằng tỉ lệ thai lâm sàng và trẻ sinh sống tăng lên đến mốc 9 noãn bào thụ tinh trong các chu kì IVF chuyển phôi tươi 1 phôi nang; sau mốc 9 noãn bào thụ tinh, CPR và LBR giảm đáng kể về mặt thống kê. Nghiên cứu này hỗ trợ bằng chứng cho việc kích thích nhẹ hơn trong các chu kì chọc hút có dự định chuyển phôi tươi để đạt được mục tiêu là khoảng chín noãn thụ tinh. Trường hợp số noãn bào thụ tinh nhiều hơn có thể ảnh hưởng bất lợi đến khả năng làm tổ của nội mạc tử cung.
Nguồn: Clinical pregnancy (CP) and live birth (LB) increase significantly with each additional fertilized oocyte up to nine, and CP and LB decline after that: an analysis of 15,803 first fresh in vitro fertilization cycles from the Society for Assisted Reproductive Technology registry, Fertility and Sterility , 2019.
Một nghiên cứu hồi cứu cỡ mẫu lớn với dữ liệu của SART trên 15.803 bệnh nhân đã được công bố trên tạp chí Fertility and Sterility. Nghiên cứu được thiết kế để xem xét mối liên hệ giữa số lượng noãn thụ tinh 2PN và tỉ lệ thai lâm sàng trong lần chuyển phôi tươi đầu tiên với một phôi nang. Kết cục chính của nghiên cứu là tỉ lệ thai lâm sàng (CPR), tỉ lệ trẻ sinh sống (LBR) và tỉ lệ sẩy thai. Hồi quy logistic được sử dụng để điều tra mối liên quan giữa số lượng noãn thụ tinh và từng kết quả.
Kết quả của nghiên cứu: số lượng noãn thu nhận được trung bình là 15, và số lượng noãn thụ tinh trung bình là 9. CPR là 57%, LBR là 49% và tỉ lệ sẩy thai là 13%. Dữ liệu hồi quy cho thấy số lượng noãn thụ tinh và CPR có mối quan hệ không tuyến tính, có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001): CPR tăng 8% cho mỗi noãn bào thụ tinh thêm cho đến chín noãn bào (OR 1,08 95%CI 1,07 - 1,10); CPR giảm 9% cho mỗi noãn bào thụ tinh thêm sau chín noãn bào (OR 0,91 95%CI 0,89 - 0,94). Tương tự, LBR cao hơn 8% cho mỗi noãn bào thụ tinh bổ sung đến chín (OR 1,08; 95%CI 1,06 – 1,10) và giảm 8% cho mỗi noãn bào bổ sung thêm sau chín (OR 0,92; 95% CI 0,90 – 0,94). Không có mối liên hệ giữa số lượng noãn thụ tinh và tỉ lệ sẩy thai.
Nghiên cứu này đã chứng minh rằng tỉ lệ thai lâm sàng và trẻ sinh sống tăng lên đến mốc 9 noãn bào thụ tinh trong các chu kì IVF chuyển phôi tươi 1 phôi nang; sau mốc 9 noãn bào thụ tinh, CPR và LBR giảm đáng kể về mặt thống kê. Nghiên cứu này hỗ trợ bằng chứng cho việc kích thích nhẹ hơn trong các chu kì chọc hút có dự định chuyển phôi tươi để đạt được mục tiêu là khoảng chín noãn thụ tinh. Trường hợp số noãn bào thụ tinh nhiều hơn có thể ảnh hưởng bất lợi đến khả năng làm tổ của nội mạc tử cung.
Nguồn: Clinical pregnancy (CP) and live birth (LB) increase significantly with each additional fertilized oocyte up to nine, and CP and LB decline after that: an analysis of 15,803 first fresh in vitro fertilization cycles from the Society for Assisted Reproductive Technology registry, Fertility and Sterility , 2019.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tình trạng khó xử của bác sĩ lâm sàng với thể khảm – một góc nhìn từ sinh thiết khối tế bào bên trong - Ngày đăng: 16-07-2019
Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT-A) cần thiết trong trường hợp nào? - Ngày đăng: 14-07-2019
Sàng lọc tim bẩm sinh nặng ở trẻ sơ sinh bằng đo độ bão hòa oxy máu - Ngày đăng: 14-07-2019
Một số lời khuyên khi tìm kiếm tạp chí để nộp bản thảo - Ngày đăng: 14-07-2019
Mối liên quan giữa yếu tố ROS trong môi trường nuôi cấy với sự phát triển của giao tử và phôi. - Ngày đăng: 14-07-2019
Các thông số liên quan đến số lượng bản sao DNA ti thể của phôi nang người: biết được gì từ lớp tế bào lá nuôi sinh thiết? - Ngày đăng: 14-07-2019
Phòng ngừa Streptococcus nhóm B khởi phát sớm ở trẻ sơ sinh - Ngày đăng: 14-07-2019
Tỉ lệ sinh sống cộng dồn ở các trường hợp tiên lượng kém - Ngày đăng: 14-07-2019
Có nên chuyển đơn phôi? - Ngày đăng: 14-07-2019
Sự trưởng thành noãn in vitro được cải thiện bằng việc đồng nuôi cấy với tế bào cumulus từ noãn trưởng thành - Ngày đăng: 10-07-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon Hotel (Số 76 Lê Lai, Phường Bến Nghé, Quận 1, ...
Năm 2020
Caravelle Hotel Saigon, chiều thứ bảy 20.4 và chủ nhật 21.4.2024
Năm 2020
Khách sạn Caravelle Saigon, Chủ nhật 21.1.2024 (9:00 - 11:15)
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách dự kiến phát hành đầu tháng 6.2024
Sách ra mắt ngày 9 . 3 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...
Y học sinh sản số 68 ra mắt ngày 25 . 12 . 2023 và gửi đến quý ...
FACEBOOK