Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 21-08-2020 3:02pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Trịnh Thị Thùy Trang – IVF Vạn Hạnh
 
Trong những năm đầu của thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), do tỷ lệ làm tổ thấp khi chuyển đơn phôi nên chuyển nhiều phôi cùng lúc được thực hành rất phổ biến. Năm 2000, hơn 2/3 các chu kỳ chuyển phôi ở Hoa Kỳ bao gồm từ 3 phôi trở lên, và chỉ 1% các ca chuyển là chuyển một phôi có chọn lọc. Những tiến bộ công nghệ đã dẫn đến việc lựa chọn phôi tốt hơn và cải thiện tỷ lệ làm tổ, nhưng cũng dẫn đến tỷ lệ đa thai cao. Trong hai thập kỷ gần đây, trên thế giới đã có nhiều nỗ lực nhằm giảm số lượng phôi được chuyển mỗi chu kỳ với một số quốc gia quy định số lượng phôi chuyển tối đa.

Giảm số lượng phôi chuyển làm giảm số lượng đa thai nhưng tỷ lệ song thai vẫn cao. Năm 2012, Ủy ban Thực hành của Hiệp hội Công nghệ Hỗ trợ Sinh sản và Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ đã thừa nhận tỷ lệ làm tổ được cải thiện và kêu gọi đánh giá lại việc chuyển nhiều phôi. So với các trường hợp đơn thai, song thai do thụ tinh ống nghiệm có tỷ lệ biến chứng sản khoa và sơ sinh cao hơn, bao gồm tiền sản giật, vỡ ối non, mổ lấy thai và tử vong chu sinh. Tài liệu của ủy ban thực hành này cũng đưa ra các tiêu chí để lựa chọn bệnh nhân có tiên lượng tốt cho chuyển phôi đơn phôi chọn lọc (eSET). Như dự đoán, chuyển hai phôi (DET) dẫn đến tỷ lệ đa thai cao hơn so với eSET. Phụ nữ dưới 35 tuổi có tỷ lệ đa thai với DET là 40%. Con số này giảm dần theo độ tuổi, nhưng vẫn đáng kể ngay cả ở nhóm 38-40 tuổi với tỷ lệ 28%.

Năm 2016, có 50,1% ca chuyển phôi eSET trong các chu kỳ chuyển phôi tươi được báo cáo tại Hiệp hội Công nghệ Hỗ trợ Sinh sản. Một trong những trở ngại đối với việc thúc đẩy và triển khai eSET là mối quan tâm liên quan đến việc giảm tỷ lệ thành công so với DET. Một số nghiên cứu so sánh eSET với DET trong các chu kỳ chuyển phôi tươi, đã cho thấy kết quả tốt hơn sau DET. Tuy nhiên, các trường hợp eSET không thành công chu kỳ trên được theo dõi bằng chuyển phôi trữ lạnh, tỷ lệ sinh cộng dồn không khác biệt về mặt thống kê. Trong cả hai nhóm, số lượng phôi tối đa được sử dụng là hai, nhưng trong nhóm eSET, các phôi được chuyển trong hai chu kỳ riêng biệt. Trên thực tế, trong một số nghiên cứu, cơ hội sinh sống ở nhóm eSET cao hơn khi thực hiện chu kỳ tiếp theo bằng chuyển phôi đông lạnh (FET), cho thấy rằng hai eSET liên tiếp nhau có kết quả tốt hơn DET.

Hai nghiên cứu năm 2019 đề xuất rằng eSET cũng nên được áp dụng cho các chu kỳ FET. Freeman và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu so sánh eSET và DET của phôi nang trữ lạnh – rã đông ở phụ nữ dưới 38 tuổi và không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ sinh sống giữa hai nhóm. Như dự đoán, tỷ lệ đa thai cao hơn có ý nghĩa thống kê sau DET (24% –65%) so với eSET (0% –3%). Các tác giả lưu ý rằng đa thai ở nhóm DET vẫn cao ngay cả khi chuyển một phôi chất lượng tốt cùng với một phôi kém chất lượng hơn. Họ kết luận rằng eSET duy trì tỷ lệ sinh sống trong khi giảm tỷ lệ đa thai.

Một nghiên cứu của Park và cs đưa ra kết luận tương tự sau khi so sánh kết quả giữa DET và eSET của phôi nang trữ lạnh – rã đông ở phụ nữ 35–39 tuổi. Tỷ lệ đa thai cao (21,4% –34,6%) xảy ra sau DET mà không cải thiện đáng kể tỷ lệ sinh sống. Khi xem xét chất lượng phôi, họ không tìm thấy sự khác biệt về tỷ lệ mang thai lâm sàng và sinh sống khi chuyển hai phôi có chất lượng khác biệt (một loại tốt và một loại kém chất lượng) so với chuyển một phôi chất lượng tốt. Tuy nhiên, tỷ lệ có thai lâm sàng cao hơn khi chuyển hai phôi chất lượng tốt (64,5%) so với chuyển hai phôi chất lượng khác biệt (47,6%).

Điều thú vị là trong nghiên cứu FET này, việc chuyển đồng thời một phôi chất lượng kém với một phôi chất lượng tốt dẫn đến tỷ lệ làm tổ thấp hơn (25,3%) so với chuyển một phôi đơn lẻ (44,1%). Các tác giả suy đoán rằng sự hiện diện của phôi chất lượng kém có thể ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm tổ của phôi chất lượng tốt. Họ lưu ý rằng các nghiên cứu trước đây đã chứng minh sự tương tác hoặc “crosstalk” giữa phôi và nội mạc tử cung của mẹ. Các tế bào đệm nội mạc tử cung của người đã được chứng minh là có khả năng phân biệt chất lượng phôi và phản ứng có chọn lọc với phôi người chất lượng thấp bằng cách ức chế tiết ra các yếu tố làm tổ. Do đó, một phôi chất lượng kém có thể tác động tiêu cực đến việc làm tổ của phôi chất lượng tốt, nếu cả hai được chuyển cùng nhau. Các tác giả kết luận rằng nên tránh chuyển phôi chất lượng tốt với phôi kém chất lượng và cũng đề xuất rằng hai lần chuyển liên tiếp một phôi duy nhất có thể thích hợp hơn so với DET.

Trong vấn đề hiện tại Hill và cs nghiên cứu khả năng gây nhiễu xuyên âm (“crosstalk”) nội mạc tử cung của phôi trong bài báo của họ có tiêu đề “Việc chuyển kết hợp phôi nang chất lượng thấp với phôi chất lượng tốt có gây bất lợi cho khả năng sinh sống không?”. Họ đã tiến hành một nghiên cứu hồi cứu, so sánh kết quả của những bệnh nhân trải qua DET với phôi nang chất lượng tốt và phôi chất lượng thấp hơn với những bệnh nhân trải qua SET trong chu kỳ IVF tươi. Phân tích chính của họ chỉ bao gồm các chu kỳ trong đó không có phôi dư để trữ lạnh và dữ liệu từ 4.640 (889 DET so với 3.751 SET) chu kỳ IVF tươi tự thân từ năm 2013 đến năm 2015 đã được phân tích. Khi họ mở rộng phân tích của mình bao gồm những bệnh nhân có phôi nang dư để trữ lạnh, có 8.889 chu kỳ để phân tích. Kết quả từ nghiên cứu lớn này cho thấy rằng việc chuyển thêm một phôi kém chất lượng không có ảnh hưởng bất lợi đến tỷ lệ sinh sống và các tác giả kết luận rằng phát hiện của họ không ủng hộ giả thuyết về nhiễu xuyên âm nội mạc tử cung của phôi.

Mặc dù không thấy bất lợi về tỷ lệ sinh sống sau khi chuyển phôi thứ hai kém chất lượng, các tác giả cho rằng việc bổ sung phôi thứ hai là có hại do làm tăng khả năng mang đa thai. Ví dụ, thêm phôi dâu vào phôi nang chất lượng tốt làm tăng tỷ lệ đa thai (12% so với 1%), nhưng không làm tăng đáng kể tỷ lệ sinh sống (50%) so với SET (49%). Họ phát hiện ra rằng đối với những phụ nữ dưới 38 tuổi, việc chuyển hai phôi dẫn đến tỷ lệ sinh sống tăng nhẹ (51% so với 58%) còn tỷ lệ đa thai tăng rõ rệt (1% so với 19%). Phù hợp với các khuyến nghị hiện tại, các tác giả kết luận rằng ở những bệnh nhân dưới 38 tuổi, eSET nên được khuyến khích.

Nghiên cứu được trình bày bởi Hill và cs đã có những đóng góp lâm sàng đối với dữ liệu về IVF. Nghiên cứu có kích thước mẫu lớn và đề cập đến việc chỉ chuyển một phôi nang chất lượng tốt. Mặc dù những người khác đã giải quyết câu hỏi liệu có nên chuyển hai phôi nếu chỉ có một phôi chất lượng tốt, các nghiên cứu trước đây bị hạn chế bởi kích thước mẫu nhỏ hơn và bao gồm cả giai đoạn phân cắt và phôi nang. Nghiên cứu lâm sàng lớn này chứng minh rõ ràng rằng ngay cả những phôi kém chất lượng cũng có tiềm năng làm tổ và phát triển. Dữ liệu của họ cũng sẽ hỗ trợ chiến lược cho hai chu kỳ eSET tuần tự thay vì DET với mục tiêu duy trì tỷ lệ sinh sống trong khi giảm thiểu tỷ lệ đa thai.
 
Nguồn: Are two better than one? Two sequential transfers of a single embryo may be better than a double-embryo transfer. Fertility and Sterility. DOI:https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2020.04.064
Link bài: https://www.fertstert.org/article/S0015-0282(20)30432-5/fulltext?fbclid=IwAR0GTx-qMP5-IPfI-Xo08NHN2XffCFIO6HRJfJmLrgu0sCuB4GyOJCo83GU

Các tin khác cùng chuyên mục:
Bổ sung năng lượng cho noãn già - Ngày đăng: 21-08-2020
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ nhật ngày 3 . 11 . 2024

Năm 2020

Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 22 tháng 9 năm 2024

Năm 2020

Indochine Palace, TP Huế, chiều thứ sáu 9.8.2024 (14:20 - 17:30)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời tác giả gửi bài cộng tác trước 15.12.2024

Sách ra mắt ngày 15 . 5 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK