Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 31-03-2025 2:09pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh
 
Giới thiệu
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh lý phụ khoa ảnh hưởng đến khả năng sinh sản ở phụ nữ, với tác động rõ rệt đến chất lượng noãn. Cơ chế tác động của LNMTC lên chất lượng noãn bao gồm tổn thương do viêm, sự mất cân bằng hormone và những thay đổi trong biểu hiện gen liên quan đến quá trình phát triển của noãn. Ngoài ra, sự suy giảm chức năng ty thể và tăng mức độ stress oxy hóa có thể ảnh hưởng đến khả năng trưởng thành và năng lượng tế bào của noãn, từ đó làm giảm tiềm năng phát triển của phôi sau khi thụ tinh. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng bệnh nhân LNMTC có tỉ lệ thụ tinh và làm tổ thấp hơn, do đó cần có những chiến lược cá nhân hóa để tối ưu hóa kết quả điều trị.
 
Mục tiêu của bài tổng quan này là làm rõ các cơ chế bệnh lý ảnh hưởng đến chất lượng noãn ở bệnh nhân LNMTC, cũng như đưa ra các phương pháp chẩn đoán và can thiệp điều trị hiệu quả nhằm cải thiện kết quả sinh sản trong IVF.
 
Ảnh hưởng của lạc nội mạc tử cung đến chất lượng noãn
Kết quả lâm sàng
Các nghiên cứu lâm sàng đã chỉ ra noãn của bệnh nhân LNMTC có nguy cơ thất bại trong thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) cao hơn và có kết quả lâm sàng kém hơn. Phân tích hồi cứu của Wu và cộng sự (2021) trên 1724 bệnh nhân cho thấy LNMTC không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng mà còn làm giảm số lượng noãn. Nghiên cứu quan sát đoàn hệ của Maignien và cộng sự (2023) trên 57 bệnh nhân LNMTC đã so sánh 244 chu kỳ chuyển phôi tự thân thất bại với 90 chu kỳ nhận noãn hiến tặng. Kết quả cho thấy tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy cao hơn đáng kể ở nhóm nhận noãn hiến tặng. Một nghiên cứu hồi cứu khác của Simón trên 192 chu kỳ nhận noãn hiến tặng (bao gồm 78 bệnh nhân vô sinh do tắc vòi trứng và 59 bệnh nhân vô sinh do LNMTC) ghi nhận rằng tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai lâm sàng thấp hơn đáng kể khi sử dụng noãn từ bệnh nhân LNMTC. Những kết quả này củng cố giả thuyết rằng chất lượng noãn kém là một yếu tố quan trọng góp phần gây vô sinh ở bệnh nhân LNMTC, cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa suy giảm chất lượng noãn và khả năng sinh sản bị ảnh hưởng ở nhóm bệnh nhân này.
Hình thái và cấu trúc noãn
Nghiên cứu của Kasapoglu và cộng sự (2018) về hình thái noãn ở bệnh nhân LNMTC và vô sinh do yếu tố nam giới cho thấy nhóm bệnh nhân LNMTC có tỉ lệ bất thường về hình thái noãn cao hơn đáng kể. Cụ thể, những noãn này có bào tương sẫm màu, màng ZP dày, mỏng hoặc tối màu, thể cực phẳng hoặc bị phân mảnh. Nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng bệnh nhân LNMTC có tỉ lệ phôi bất thường nhiễm sắc thể cao, tăng sự phân mảnh bào tương và tổn thương DNA.
Môi trường phức tạp ở bệnh nhân LNMTC có thể gây ra những thay đổi ở thoi vô sắc, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng noãn. Nhóm tác giả Goud đã quan sát thấy tỉ lệ noãn có thoi vô sắc bất thường cao hơn ở bệnh nhân LNMTC trải qua quá trình trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) so với bệnh nhân vô sinh do yếu tố nam giới. Ngoài ra, các nghiên cứu trên chuột cũng cho thấy noãn tiếp xúc với dịch phúc mạc từ bệnh nhân lạc nội mạc tử cung có sự tổn thương đáng kể về cấu trúc vi ống và nhiễm sắc thể, có thể liên quan đến sự thay đổi thoi vô sắc trong quá trình giảm phân. Xu và cộng sự cũng báo cáo rằng tỉ lệ ty thể có cấu trúc bất thường cao hơn và tổng số lượng ty thể trong noãn của bệnh nhân LNMTC thấp hơn so với nhóm đối chứng.
 
Cơ chế gây suy giảm chất lượng noãn
LNMTC gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản bằng cách tác động đến chất lượng noãn, tuy nhiên, cơ chế chính xác vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn. Một trong những yếu tố quan trọng là môi trường vi nang, đặc biệt là dịch nang. Bên cạnh đó, sự thay đổi trong quá trình tổng hợp và stress oxy hóa, cytokine, lipid và hormone steroid cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng noãn.
ROS
Ở bệnh nhân LNMTC, mức ROS tăng cao có thể làm cho noãn dễ bị tổn thương, dẫn đến bất ổn thoi vô sắc, bất thường nhiễm sắc thể, rút ngắn telomere và giảm khả năng phát triển của noãn. Do đó, sự mất cân bằng giữa các chất oxy hóa và chất chống oxy hóa trong môi trường nang noãn có ảnh hưởng đáng kể đến quá trình phát triển nang noãn, trưởng thành noãn, rụng trứng và phát triển phôi.
LNMTC có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng noãn bằng cách làm suy giảm chức năng của tế bào hạt. Lin và cộng sự (2020) đã đo mức ROS trong tế bào hạt của bệnh nhân LNMTC và bệnh nhân vô sinh do tắc vòi trứng, phát hiện mức ROS tăng đáng kể cùng với sự suy giảm của các enzyme chống oxy hóa. Michele và cộng sự (2018) cho thấy sự gia tăng quá trình oxy hóa DNA trong dịch nang noãn khi mức 8-OHdG cao, có thể ảnh hưởng đến chất lượng noãn ở bệnh nhân LNMTC. Hamdan phát hiện rằng dịch nang noãn từ bệnh nhân LNMTC có thể làm tăng mức ROS trong noãn, gây tổn thương DNA thông qua con đường đáp ứng tổn thương DNA (DDR-SAC).
Cytokine
Cytokine trong dịch nang noãn chủ yếu được tổng hợp từ buồng trứng và huyết tương, đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa nhiều quá trình sinh sản, bao gồm sự phát triển nang noãn, trưởng thành noãn, rụng trứng, tổng hợp steroid, phát triển phôi và duy trì thai kỳ. LNMTC có thể ảnh hưởng đến môi trường vi mô của nang noãn, dẫn đến rối loạn rụng trứng, giảm chất lượng noãn và giảm tỉ lệ làm tổ. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự thay đổi nồng độ cytokine trong dịch nang của bệnh nhân LNMTC, tác động đến quá trình chuyển hóa và chất lượng noãn. Các nghiên cứu cũng ghi nhận sự gia tăng cytokine tiền viêm và giảm cytokine kháng viêm ở những bệnh nhân này so với nhóm đối chứng khỏe mạnh. Một số cytokine như interleukin-8 (IL-8), interleukin-12 (IL-12) và adrenomedullin (ADM) được phát hiện có biểu hiện cao bất thường và có mối liên quan tiêu cực đến độ trưởng thành của noãn cũng như chất lượng phôi. Ngoài ra, interleukin-10 (IP-10) và thụ thể của nó, C-X-C chemokine receptor type 3 (CXCR3), đã được chứng minh có liên quan đến tỉ lệ thụ tinh và chất lượng phôi, gợi ý rằng chúng có thể ảnh hưởng đến chất lượng noãn trong vô sinh do LNMTC. Tuy nhiên, cần thêm nhiều nghiên cứu để làm sáng tỏ hoàn toàn các cơ chế này.
Một số cơ chế khác
LNMTC được biết là bị ảnh hưởng bởi estrogen, mặc dù cơ chế bệnh sinh chính xác vẫn chưa được làm rõ. Các nghiên cứu gần đây về mối quan hệ giữa lạc nội mạc tử cung, chuyển hóa steroid và chức năng buồng trứng cho thấy rằng tình trạng này có thể tác động đến sự phát triển nang noãn và chất lượng noãn thông qua con đường chuyển hóa hormone. Một phát hiện quan trọng khác là sự giảm biểu hiện của mRNA mã hóa protein điều hòa cấp tính quá trình tổng hợp steroid (StAR - Steroidogenic acute regulatory) trong tế bào hạt của phụ nữ LNMTC. Vì StAR là một yếu tố thiết yếu trong quá trình tổng hợp hormone steroid, sự suy giảm này có thể dẫn đến chậm phát triển nang noãn, mất cân bằng hormone steroid trong nang và suy giảm chất lượng noãn.
LNMTC cũng có liên quan đến sự thay đổi trong chuyển hóa lipid nội sinh. Ferrero và cộng sự (2019) đã sử dụng kỹ thuật giải trình tự transcriptome đơn bào trên noãn của bệnh nhân LNMTC và phát hiện sự tăng biểu hiện của các gen liên quan đến chuyển hóa lipid như APOE và DUSP1. Điều này cho thấy hoạt động chuyển hóa lipid mạnh mẽ trong noãn, có thể liên quan đến tình trạng stress oxy hóa trong cơ thể, ảnh hưởng đến sự phát triển của noãn và làm suy giảm chất lượng noãn.
 
Giải pháp cải thiện chất lượng noãn kém do lạc nội mạc tử cung
Phẫu thuật điều trị
Lựa chọn phương pháp phẫu thuật sẽ phụ thuộc vào tình trạng cụ thể của từng người, trong đó nội soi ổ bụng là phương pháp được ưu tiên đối với bệnh nhân mắc LNMTC ở buồng trứng. Các kỹ thuật phẫu thuật thường được áp dụng bao gồm: cắt bỏ nang (cystectomy), chọc hút nang (cyst puncture), mở cửa sổ nang (fenestration), đốt thành nang (cyst wall cauterization). Mặc dù tác động của phẫu thuật lên chất lượng noãn ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung chưa được nghiên cứu đầy đủ, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng việc loại bỏ tổn thương có thể giúp cải thiện tình trạng stress oxy hóa và viêm cục bộ, từ đó giảm thiểu các yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng noãn
Liệu pháp hormone
Các phương pháp điều trị hiện nay chủ yếu tập trung vào giảm nồng độ estrogen, tạo ra môi trường không phụ thuộc estrogen thông qua thuốc tránh thai đường uống, chất đồng vận GnRH, androgen hoặc chất ức chế aromatase. Một số nghiên cứu cho thấy việc sử dụng gonadotropin trước khi thực hiện IVF có thể cải thiện chất lượng noãn và khả năng tiếp nhận phôi của NMTC, từ đó nâng cao tỉ lệ thành công. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Georgiou (2019), so sánh giữa nhóm bệnh nhân được điều trị bằng chất đồng vận GnRH trước IVF trong 3 tháng với nhóm không được điều trị trước, kết quả không có sự khác biệt đáng kể về số lượng noãn thu được, số phôi, tỉ lệ sảy thai, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống. Hiện nay vẫn thiếu các nghiên cứu chuyên sâu về ảnh hưởng trực tiếp của liệu pháp hormone lên chất lượng noãn, do đó cần có thêm các nghiên cứu lâm sàng chất lượng cao để đánh giá đầy đủ tác động của phương pháp này đối với bệnh nhân LNMTC.
Chất chống oxy hóa
Trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, mù ba, có đối chứng với giả dược do Rostami và cộng sự (2023) thực hiện, astaxanthin giúp giảm mức TNF-α và IL-6 trong dịch nang trứng, đồng thời giảm tổng mức oxy hóa và chỉ số oxy hóa so với nhóm đối chứng. Kết quả này cho thấy astaxanthin có thể cải thiện chất lượng noãn và phôi trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cho bệnh nhân LNMTC. Ngoài ra, nghiên cứu của tác giả He phát hiện rằng melatonin được sản xuất bởi ty thể trong noãn chuột, và khi điều trị noãn trưởng thành trong ống nghiệm (IVM) bằng melatonin, nó giúp giảm sản xuất ROS và ức chế sự hình thành 8-hydroxy-deoxyguanosine – một dấu hiệu của tổn thương DNA do oxy hóa. Melatonin còn giúp tăng số bản sao DNA ty thể, giảm tỉ lệ noãn có trục thoi bất thường và nâng cao chất lượng phôi nang thu được. Nhìn chung, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng chất chống oxy hóa có thể cải thiện chất lượng noãn thông qua việc giảm stress oxy hóa trong dịch nang noãn, cải thiện chức năng tế bào hạt và tăng cường hoạt động của ty thể ở bệnh nhân LNMTC. Tuy nhiên, cần có thêm các nghiên cứu để xác định liều lượng tối ưu và đảm bảo tính an toàn của các phác đồ điều trị bằng chất chống oxy hóa.
 
Kết luận
LNMTC có thể dẫn đến giảm cả chất lượng và số lượng noãn, từ đó làm suy giảm kết quả lâm sàng trong quá trình điều trị hiếm muộn. Ảnh hưởng của LNMTC đến noãn chủ yếu thông qua các yếu tố như gốc oxy hóa tự do (ROS), cytokine và sự thay đổi nội tiết tố trong vi môi trường phát triển của noãn. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại có cỡ mẫu nhỏ và kết quả không đồng nhất, do đó cần có các nghiên cứu lớn hơn để xác nhận cơ chế tác động cụ thể của bệnh.
 
Nguồn: Fan Y, Yang Q, Lin Y, Fu X, Shu J. The effect of endometriosis on oocyte quality: mechanisms, diagnosis and treatment. Arch Gynecol Obstet. 2025;311(3):841-850. doi:10.1007/s00404-025-07965-0.
 
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK