Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 19-10-2024 3:50pm
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Phan Thị Ngọc Linh – IVFMD Tân Bình
 
  1. Giới thiệu:
Viêm nội mạc tử cung mãn tính là tình trạng viêm dai dẳng, khó phát hiện ở nội mạc tử cung, đặc trưng bởi sự xâm nhập của các tế bào plasma vào mô đệm của nội mạc tử cung. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng viêm nội mạc tử cung mãn tính liên quan đến vô sinh, thất bại làm tổ (recurrent implantation failure – RIF) và sẩy thai liên tiếp (recurrent pregnancy loss – RPL). Điều trị bằng kháng sinh đã được chứng minh là có hiệu quả ở phần lớn bệnh nhân viêm nội mạc tử cung mãn tính có thể cải thiện kết quả IVF tiếp theo ở những bệnh nhân đã từng sẩy thai hoặc thất bại làm tổ. Tuy nhiên, do nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào phụ nữ bị RPL hoặc RIF, nên ảnh hưởng của viêm nội mạc tử cung mãn tính đối với kết quả lâm sàng ở nhóm vô sinh nói chung vẫn chưa rõ. Việc liệu bệnh nhân có nên được sàng lọc viêm nội mạc tử cung trước IVF hay không gần đây đã trở thành một vấn đề được tranh luận nhiều.
 
Một số bằng chứng ngày càng tăng cho thấy phụ nữ đã hồi phục từ viêm nội mạc tử cung mãn tính có xu hướng cải thiện kết quả sinh sản, thể hiện ở tỷ lệ mang thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống cao hơn so với những người bị viêm nội mạc tử cung mãn tính kéo dài. Tuy nhiên, vẫn chưa kết luận được liệu phụ nữ bị viêm nội mạc tử cung mãn tính đã chữa khỏi (cured chronic endometritis – CCE) có kết quả lâm sàng tương đương với những người không bị bệnh hay không. Nghiên cứu nhóm người trước đây của các tác giả hiện tại cho thấy tỷ lệ sẩy thai và tỷ lệ sinh sống của phụ nữ bị CCE tương tự như những người không bị viêm nội mạc tử cung mãn tính, trong khi các nhóm khác lại tìm thấy kết quả trái ngược. Một nghiên cứu quan sát gần đây cho thấy tỷ lệ sẩy thai cao hơn và tỷ lệ sinh sống thấp hơn được tìm thấy ở phụ nữ đã từng bị viêm nội mạc tử cung mãn tính được chữa khỏi bằng kháng sinh. Cơ chế cho điều này có thể là sự suy yếu của quá trình tạo màng đệm, phản ứng viêm bất thường và rối loạn tự miễn trong nội mạc tử cung trong thời gian viêm nội mạc tử cung mãn tính.
 
Tuy nhiên, trong tất cả các nghiên cứu trước đó, cấu trúc nhiễm sắc thể (NST) của phôi được chuyển vẫn chưa được xác định, và kiểu gen của các sản phẩm trong thai kì trong trường hợp sẩy thai không có sẵn. Do bất thường NST là một trong những nguyên nhân hàng đầu của sẩy thai sớm cũng như thất bại trong việc làm tổ, nên điều cần thiết là phải nghiên cứu tác động thực sự của CCE đối với kết quả mang thai bất lợi trong trường hợp chuyển phôi bình thường sau xét nghiệm di truyền trước khi làm tổ (PGT-A).
 
Về chẩn đoán viêm nội mạc tử cung mãn tính, sinh thiết nội mạc tử cung với mô học dựa trên việc đếm tế bào plasma trong stroma nội mạc tử cung là tiêu chuẩn vàng. Syndecan-1 (CD138), một proteoglycan heparan sulfate loại xuyên màng trên bề mặt tế bào plasma, là dấu ấn thường được sử dụng nhất để chẩn đoán miễn dịch hóa học viêm nội mạc tử cung mãn tính. Theo kết quả trước đây, không có tác động tiêu cực đến kết quả mang thai ở những bệnh nhân có ≤4 tế bào plasma CD138+ mỗi HPF (CD138+/HPF), trong khi đó ≥5 CD138+/HPF được định nghĩa là viêm nội mạc tử cung mãn tính. Tuy nhiên, do tiêu chí chẩn đoán viêm nội mạc tử cung mãn tính hiện đang được tranh luận, nên có nhiều lo ngại rằng những bệnh nhân có 1– 4 CD138+/HPF có thể không được coi là những bệnh nhân khỏe mạnh không bị viêm nội mạc tử cung mãn tính.
 
Nghiên cứu này tập trung vào việc so sánh kết quả mang thai ở những phụ nữ đã điều trị viêm nội mạc tử cung và những người không mắc bệnh, đặc biệt là sau khi chuyển phôi đã sàng lọc di truyền. Mục tiêu là làm rõ hơn về mối liên hệ giữa viêm nội mạc tử cung và khả năng mang thai thành công.
 
  1. Phương pháp:
Một phân tích nhóm tương quan hồi cứu bao gồm 833 bệnh nhân trong chu kỳ chuyển phôi đông lạnh (FET) đầu tiên với việc chuyển một phôi nang nguyên bội (euploid embryo). Viêm nội mạc tử cung mãn tính (≥5 tế bào plasma CD138+ mỗi HPF ([CD138+/HPF]) được điều trị bằng liệu pháp kháng sinh.
Bệnh nhân được phân loại thành hai nhóm: nhóm không viêm nội mạc tử cũng mạn tính (NCE) (n = 611, <5 CD138+/HPF) và nhóm viêm nội mạc tử cung mạn tính đã chữa khỏi bằng kháng sinh (CCE) (n = 222, ≥5 CD138+/HPF). Nhóm NCE được chia thành nhóm nhỏ 1 (CD138+/HPF = 0) và nhóm nhỏ 2 (CD138+/HPF = 1–4) để phân tích thêm. Kết quả mang thai được ghi nhận ở các nhóm.
  1. Kết quả
Tỷ lệ sẩy thai sớm (early pregnancy loss – EPL), bao gồm tất cả hiện tượng sẩy thai trước 10 tuần của giai đoạn phôi, ở nhóm CCE cao hơn đáng kể so với nhóm NCE (21,2% so với 14,2%, P = 0,016), và sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê ([AOR] 1,68; 95% [CI] 1,11–2,55).
Không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát giữa hai nhóm liên quan đến các kết quả mang thai khác. Trong phân tích nhóm nhỏ, tỷ lệ EPL và tỷ lệ mang thai sinh hóa cao hơn đáng kể ở nhóm nhỏ 2 so với nhóm nhỏ 1 (17,2% so với 9,4%, AOR 2,21; 95% CI 1,30–3,74; 12,2% so với 6,9%, AOR 2,01; 95% CI 1,09–3,68).
 
  1. Thảo luận
Nghiên cứu cho thấy viêm nội mạc tử cung mãn tính vẫn có thể ảnh hưởng đến khả năng mang thai của phụ nữ, ngay cả sau khi đã được điều trị. Phân tích nhóm phụ cho thấy bệnh nhân NCE có 1–4 tế bào CD138+/HPF có nguy cơ EPL và thai sinh hóa cao hơn những bệnh nhân không có tế bào CD138+/HPF.
Mặc dù điều trị bằng kháng sinh có thể loại bỏ nhiễm trùng, nhưng những thay đổi về miễn dịch trong nội mạc tử cung gây ra bởi viêm nội mạc tử cung mãn tính có thể vẫn tồn tại, gây khó khăn cho việc làm tổ của phôi. Điều này cho thấy cần nghiên cứu thêm về các phương pháp điều trị hiệu quả hơn để cải thiện khả năng sinh sản cho những phụ nữ từng mắc viêm nội mạc tử cung mãn tính.

TLTK: Zhang, Qingyan, et al. "Antibiotic cured chronic endometritis remains a risk factor for early pregnancy loss in the subsequent frozen euploid embryo transfer." Reproductive BioMedicine Online 48.2 (2024): 103611.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK