Tin tức
on Saturday 19-10-2024 3:50pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Phan Thị Ngọc Linh – IVFMD Tân Bình
Một số bằng chứng ngày càng tăng cho thấy phụ nữ đã hồi phục từ viêm nội mạc tử cung mãn tính có xu hướng cải thiện kết quả sinh sản, thể hiện ở tỷ lệ mang thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống cao hơn so với những người bị viêm nội mạc tử cung mãn tính kéo dài. Tuy nhiên, vẫn chưa kết luận được liệu phụ nữ bị viêm nội mạc tử cung mãn tính đã chữa khỏi (cured chronic endometritis – CCE) có kết quả lâm sàng tương đương với những người không bị bệnh hay không. Nghiên cứu nhóm người trước đây của các tác giả hiện tại cho thấy tỷ lệ sẩy thai và tỷ lệ sinh sống của phụ nữ bị CCE tương tự như những người không bị viêm nội mạc tử cung mãn tính, trong khi các nhóm khác lại tìm thấy kết quả trái ngược. Một nghiên cứu quan sát gần đây cho thấy tỷ lệ sẩy thai cao hơn và tỷ lệ sinh sống thấp hơn được tìm thấy ở phụ nữ đã từng bị viêm nội mạc tử cung mãn tính được chữa khỏi bằng kháng sinh. Cơ chế cho điều này có thể là sự suy yếu của quá trình tạo màng đệm, phản ứng viêm bất thường và rối loạn tự miễn trong nội mạc tử cung trong thời gian viêm nội mạc tử cung mãn tính.
Tuy nhiên, trong tất cả các nghiên cứu trước đó, cấu trúc nhiễm sắc thể (NST) của phôi được chuyển vẫn chưa được xác định, và kiểu gen của các sản phẩm trong thai kì trong trường hợp sẩy thai không có sẵn. Do bất thường NST là một trong những nguyên nhân hàng đầu của sẩy thai sớm cũng như thất bại trong việc làm tổ, nên điều cần thiết là phải nghiên cứu tác động thực sự của CCE đối với kết quả mang thai bất lợi trong trường hợp chuyển phôi bình thường sau xét nghiệm di truyền trước khi làm tổ (PGT-A).
Về chẩn đoán viêm nội mạc tử cung mãn tính, sinh thiết nội mạc tử cung với mô học dựa trên việc đếm tế bào plasma trong stroma nội mạc tử cung là tiêu chuẩn vàng. Syndecan-1 (CD138), một proteoglycan heparan sulfate loại xuyên màng trên bề mặt tế bào plasma, là dấu ấn thường được sử dụng nhất để chẩn đoán miễn dịch hóa học viêm nội mạc tử cung mãn tính. Theo kết quả trước đây, không có tác động tiêu cực đến kết quả mang thai ở những bệnh nhân có ≤4 tế bào plasma CD138+ mỗi HPF (CD138+/HPF), trong khi đó ≥5 CD138+/HPF được định nghĩa là viêm nội mạc tử cung mãn tính. Tuy nhiên, do tiêu chí chẩn đoán viêm nội mạc tử cung mãn tính hiện đang được tranh luận, nên có nhiều lo ngại rằng những bệnh nhân có 1– 4 CD138+/HPF có thể không được coi là những bệnh nhân khỏe mạnh không bị viêm nội mạc tử cung mãn tính.
Nghiên cứu này tập trung vào việc so sánh kết quả mang thai ở những phụ nữ đã điều trị viêm nội mạc tử cung và những người không mắc bệnh, đặc biệt là sau khi chuyển phôi đã sàng lọc di truyền. Mục tiêu là làm rõ hơn về mối liên hệ giữa viêm nội mạc tử cung và khả năng mang thai thành công.
Bệnh nhân được phân loại thành hai nhóm: nhóm không viêm nội mạc tử cũng mạn tính (NCE) (n = 611, <5 CD138+/HPF) và nhóm viêm nội mạc tử cung mạn tính đã chữa khỏi bằng kháng sinh (CCE) (n = 222, ≥5 CD138+/HPF). Nhóm NCE được chia thành nhóm nhỏ 1 (CD138+/HPF = 0) và nhóm nhỏ 2 (CD138+/HPF = 1–4) để phân tích thêm. Kết quả mang thai được ghi nhận ở các nhóm.
Không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát giữa hai nhóm liên quan đến các kết quả mang thai khác. Trong phân tích nhóm nhỏ, tỷ lệ EPL và tỷ lệ mang thai sinh hóa cao hơn đáng kể ở nhóm nhỏ 2 so với nhóm nhỏ 1 (17,2% so với 9,4%, AOR 2,21; 95% CI 1,30–3,74; 12,2% so với 6,9%, AOR 2,01; 95% CI 1,09–3,68).
Mặc dù điều trị bằng kháng sinh có thể loại bỏ nhiễm trùng, nhưng những thay đổi về miễn dịch trong nội mạc tử cung gây ra bởi viêm nội mạc tử cung mãn tính có thể vẫn tồn tại, gây khó khăn cho việc làm tổ của phôi. Điều này cho thấy cần nghiên cứu thêm về các phương pháp điều trị hiệu quả hơn để cải thiện khả năng sinh sản cho những phụ nữ từng mắc viêm nội mạc tử cung mãn tính.
TLTK: Zhang, Qingyan, et al. "Antibiotic cured chronic endometritis remains a risk factor for early pregnancy loss in the subsequent frozen euploid embryo transfer." Reproductive BioMedicine Online 48.2 (2024): 103611.
- Giới thiệu:
Một số bằng chứng ngày càng tăng cho thấy phụ nữ đã hồi phục từ viêm nội mạc tử cung mãn tính có xu hướng cải thiện kết quả sinh sản, thể hiện ở tỷ lệ mang thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống cao hơn so với những người bị viêm nội mạc tử cung mãn tính kéo dài. Tuy nhiên, vẫn chưa kết luận được liệu phụ nữ bị viêm nội mạc tử cung mãn tính đã chữa khỏi (cured chronic endometritis – CCE) có kết quả lâm sàng tương đương với những người không bị bệnh hay không. Nghiên cứu nhóm người trước đây của các tác giả hiện tại cho thấy tỷ lệ sẩy thai và tỷ lệ sinh sống của phụ nữ bị CCE tương tự như những người không bị viêm nội mạc tử cung mãn tính, trong khi các nhóm khác lại tìm thấy kết quả trái ngược. Một nghiên cứu quan sát gần đây cho thấy tỷ lệ sẩy thai cao hơn và tỷ lệ sinh sống thấp hơn được tìm thấy ở phụ nữ đã từng bị viêm nội mạc tử cung mãn tính được chữa khỏi bằng kháng sinh. Cơ chế cho điều này có thể là sự suy yếu của quá trình tạo màng đệm, phản ứng viêm bất thường và rối loạn tự miễn trong nội mạc tử cung trong thời gian viêm nội mạc tử cung mãn tính.
Tuy nhiên, trong tất cả các nghiên cứu trước đó, cấu trúc nhiễm sắc thể (NST) của phôi được chuyển vẫn chưa được xác định, và kiểu gen của các sản phẩm trong thai kì trong trường hợp sẩy thai không có sẵn. Do bất thường NST là một trong những nguyên nhân hàng đầu của sẩy thai sớm cũng như thất bại trong việc làm tổ, nên điều cần thiết là phải nghiên cứu tác động thực sự của CCE đối với kết quả mang thai bất lợi trong trường hợp chuyển phôi bình thường sau xét nghiệm di truyền trước khi làm tổ (PGT-A).
Về chẩn đoán viêm nội mạc tử cung mãn tính, sinh thiết nội mạc tử cung với mô học dựa trên việc đếm tế bào plasma trong stroma nội mạc tử cung là tiêu chuẩn vàng. Syndecan-1 (CD138), một proteoglycan heparan sulfate loại xuyên màng trên bề mặt tế bào plasma, là dấu ấn thường được sử dụng nhất để chẩn đoán miễn dịch hóa học viêm nội mạc tử cung mãn tính. Theo kết quả trước đây, không có tác động tiêu cực đến kết quả mang thai ở những bệnh nhân có ≤4 tế bào plasma CD138+ mỗi HPF (CD138+/HPF), trong khi đó ≥5 CD138+/HPF được định nghĩa là viêm nội mạc tử cung mãn tính. Tuy nhiên, do tiêu chí chẩn đoán viêm nội mạc tử cung mãn tính hiện đang được tranh luận, nên có nhiều lo ngại rằng những bệnh nhân có 1– 4 CD138+/HPF có thể không được coi là những bệnh nhân khỏe mạnh không bị viêm nội mạc tử cung mãn tính.
Nghiên cứu này tập trung vào việc so sánh kết quả mang thai ở những phụ nữ đã điều trị viêm nội mạc tử cung và những người không mắc bệnh, đặc biệt là sau khi chuyển phôi đã sàng lọc di truyền. Mục tiêu là làm rõ hơn về mối liên hệ giữa viêm nội mạc tử cung và khả năng mang thai thành công.
- Phương pháp:
Bệnh nhân được phân loại thành hai nhóm: nhóm không viêm nội mạc tử cũng mạn tính (NCE) (n = 611, <5 CD138+/HPF) và nhóm viêm nội mạc tử cung mạn tính đã chữa khỏi bằng kháng sinh (CCE) (n = 222, ≥5 CD138+/HPF). Nhóm NCE được chia thành nhóm nhỏ 1 (CD138+/HPF = 0) và nhóm nhỏ 2 (CD138+/HPF = 1–4) để phân tích thêm. Kết quả mang thai được ghi nhận ở các nhóm.
- Kết quả
Không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát giữa hai nhóm liên quan đến các kết quả mang thai khác. Trong phân tích nhóm nhỏ, tỷ lệ EPL và tỷ lệ mang thai sinh hóa cao hơn đáng kể ở nhóm nhỏ 2 so với nhóm nhỏ 1 (17,2% so với 9,4%, AOR 2,21; 95% CI 1,30–3,74; 12,2% so với 6,9%, AOR 2,01; 95% CI 1,09–3,68).
- Thảo luận
Mặc dù điều trị bằng kháng sinh có thể loại bỏ nhiễm trùng, nhưng những thay đổi về miễn dịch trong nội mạc tử cung gây ra bởi viêm nội mạc tử cung mãn tính có thể vẫn tồn tại, gây khó khăn cho việc làm tổ của phôi. Điều này cho thấy cần nghiên cứu thêm về các phương pháp điều trị hiệu quả hơn để cải thiện khả năng sinh sản cho những phụ nữ từng mắc viêm nội mạc tử cung mãn tính.
TLTK: Zhang, Qingyan, et al. "Antibiotic cured chronic endometritis remains a risk factor for early pregnancy loss in the subsequent frozen euploid embryo transfer." Reproductive BioMedicine Online 48.2 (2024): 103611.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tiềm năng của gel lô hội trong quá trình đông lạnh tinh trùng: một nghiên cứu ở gà trống - Ngày đăng: 19-10-2024
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) - Ngày đăng: 19-10-2024
Cửa sổ làm tổ độc nhất có thể là nguyên nhân dẫn đến thất bại trong chuyển phôi: Một phân tích hồi cứu - Ngày đăng: 05-10-2024
Tác động của tuổi cha cao lên kết quả các phương pháp hỗ trợ sinh sản (ART) - Ngày đăng: 05-10-2024
Thời gian lưu trữ phôi nang chất lượng tốt trên 5 năm có nguy cơ làm giảm tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ trẻ sinh sống - Ngày đăng: 01-10-2024
Hỗ trợ dinh dưỡng đối với loãng xương ở phụ nữ mãn kinh - Ngày đăng: 29-09-2024
Mối quan hệ giữa hệ vi khuẩn đường ruột và dậy thì sớm - Ngày đăng: 29-09-2024
Kết quả thai kỳ và sơ sinh của những trường hợp song sinh cùng trứng từ công nghệ hỗ trợ sinh sản: một nghiên cứu hồi cứu trong 10 năm - Ngày đăng: 29-09-2024
Bất động tinh trùng nhiều lần có thể cải thiện kết cục sinh sản ở những bệnh nhân có thông số tinh dịch không tối ưu và thất bại thụ tinh ICSI trước đó - Ngày đăng: 29-09-2024
Sự ra đời của 32 trẻ khoẻ mạnh sau khi chuyển phôi tươi và phôi đông lạnh sau rã đông có nguồn gốc từ hợp tử 1PN: Một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 27-09-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK