Tin tức
on Monday 01-08-2022 10:27pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phan Thanh Chi - IVFMD Tân Bình
Trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện nay, phần lớn phụ nữ đang trì hoãn việc sinh con. Ở Mỹ, tuổi trung bình và tỷ lệ sinh con đầu lòng ở phụ nữ từ 35 tuổi trở lên ngày càng tăng. Để giải thích cho xu hướng này, giáo dục, nghề nghiệp, tài chính và lý do cá nhân đều được đề cập. Tuy nhiên, lựa chọn trì hoãn quá trình sinh sản không làm trì hoãn sự suy giảm khả năng sinh sản do tuổi tác (liên quan đến giảm số lượng và chất lượng noãn). Do đó, lựa chọn trở thành mẹ ở độ tuổi ≥35 thường phải đối mặt với những vấn đề như vô sinh, không thể đạt được quy mô gia đình mong muốn hay kết quả mang thai bất lợi.
Đông lạnh noãn (Oocyte cryopreservation: OC) hiện đang được thực hiện như một phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản ở nữ giới khi phải đối mặt với sự suy giảm khả năng sinh sản do tuổi tác. Công nghệ này không những cho phép phụ nữ hoãn việc sinh con mà còn duy trì lựa chọn có con của chính họ. Bên cạnh đó, các nghiên cứu trước đây chứng minh rằng OC cho tỷ lệ phôi nguyên bội và có thai tương tự như chuyển phôi tươi và không gây thêm bất kỳ rủi ro nào khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Sau khi Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ dỡ bỏ nhãn thử nghiệm khỏi OC vào năm 2012, việc sử dụng phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản này đã tăng lên đáng kể (tăng 880% ở Hoa Kỳ từ năm 2010 đến năm 2016).
Mặc cho nhu cầu OC ngày càng tăng và phản hồi tích cực về OC nhưng hầu hết bệnh nhân đông lạnh noãn vẫn chưa rã noãn ra để sử dụng. Vậy nên có rất ít dữ liệu về rã đông noãn. Thêm vào đó, báo cáo về rã đông noãn ở các trung tâm sinh sản công lập hay tư nhân hầu hết đều từ bệnh nhân vô sinh hoặc ung thư. Điều này càng gây khó khăn cho việc chẩn đoán, ngoại suy những trường hợp phụ nữ đông lạnh noãn tự thân chỉ vì suy giảm khả năng sinh sản do tuổi tác.
Vì dữ liệu về quá trình rã đông noãn quá ít ỏi nên việc tư vấn cho bệnh nhân về khả năng mang thai từ các noãn được bảo quản lạnh vẫn còn là ẩn số. Bác sĩ và bệnh nhân thường dựa vào các mô hình dự đoán sử dụng dữ liệu ngoại suy từ người hiến noãn và bệnh nhân IVF có dự trữ buồng trứng bình thường. Tuy nhiên, độ chính xác của các mô hình này vẫn chưa được hiểu rõ và một số lo ngại rằng OC có thể cung cấp cho phụ nữ sự an toàn sai lầm hơn là kỳ vọng thực tế. Cần hiểu rõ hơn tỷ lệ sinh sống (Live birth: LB) từ OC đối với phụ nữ suy giảm khả năng sinh sản do tuổi để hỗ trợ họ đưa ra quyết định. Hơn nữa, Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ đã kêu gọi thông tin cập nhật về chủ đề này. Do đó, hồi cứu thuần tập này được thiết lập để thu thập thông tin về tất cả các trường hợp rã đông noãn tự thân tại chính cơ sở hoạt động với mục đích công bố thông tin cập nhật.
Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm Sinh sản Langone của Đại học New York với tất cả các bệnh nhân thực hiện rã đông ≥1 noãn tự thân trước ngày 31 tháng 12 năm 2020. Loại trừ các bệnh nhân thực hiện OC vì chỉ định y tế như thiếu tinh trùng, thảm họa tự nhiên, kết hợp với phôi hoặc là một phần của quy trình nghiên cứu với mục đích rã đông noãn vào tháng tiếp theo, chẩn đoán ung thư hoặc có kế hoạch mang thai từ noãn hiến tặng. Ghi nhận tất cả các thông tin liên quan đến đông lạnh noãn, rã đông noãn và chuyển phôi của bệnh nhân. Kết quả chính là tỷ lệ sinh sống cuối cùng (final live birth rate – FLBR) trên mỗi bệnh nhân tức bệnh nhân có trẻ sinh sống hoặc sử dụng hết tất cả noãn bảo quản lạnh và phôi (nguyên bội/chưa được kiểm tra/ phôi không có kết quả) đang được bảo quản tại cơ sở hoặc đã được vận chuyển đến cơ sở khác, được hiến tặng hoặc loại bỏ. Các kết quả phụ là kết quả xét nghiệm, tỷ lệ làm tổ (IR) trên số lượng phôi được chuyển, tỷ lệ lệ sảy thai tự nhiên (spontaneous abortion rate - SABR) trên mỗi lần chuyển, tỷ lệ trẻ sinh sống (LB) trên mỗi lần chuyển.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tổng cộng 543 bệnh nhân với 800 ca đông lạnh noãn, 605 ca rã đông và 436 ca chuyển phôi. Tuổi trung bình của nữ giới ở lần bảo quản lạnh đầu tiên là 38,3 tuổi. Thời gian trung bình từ lần bảo quản lạnh đầu tiên đến khi rã đông là 4,2 năm. Số lượng trung bình của noãn và noãn ở giai đoạn kỳ giữa gỉảm phân II (M2) được rã đông trên mỗi bệnh nhân tương ứng là 14 và 12. Tỷ lệ sống chung của tất cả noãn sau rã đông là 79%. Trong số tất cả bệnh nhân, 61% đã trải qua ≥1 lần chuyển phôi. Thêm vào đó, trong số các lần chuyển phôi nguyên bội (n = 262) và phôi không sinh thiết (n = 158), tỷ lệ LB trên mỗi lần chuyển lần lượt là 55% và 31%. FLBR trên mỗi bệnh nhân là 39%. Theo đó, tuổi khi bảo quản lạnh và số lượng noãn M2 rã đông góp phần dự đoán kết quả LB. FLBR trên mỗi bệnh nhân là >50% đối với bệnh nhân dưới 38 tuổi khi bảo quản lạnh hoặc đã rã đông ≥20 noãn M2. Tổng số 173 bệnh nhân (32%) còn noãn/phôi đông lạnh hoặc cả noãn và phôi đông lạnh.
Tóm lại, OC tự thân là một phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản khả thi mang lại kết quả LB cho 39% bệnh nhân. Hầu hết bệnh nhân <38 tuổi thực hiện OC hoặc những người đã rã đông ≥20 noãn M2 đều có con từ quá trình rã đông noãn. Nghiên cứu này là báo cáo lớn nhất của Hoa Kỳ về kết quả rã đông từ OC đối với phụ nữ suy giảm khả năng sinh sản liên quan đến tuổi và cung cấp cái nhìn sâu sắc về kết quả OC. Cụ thể, cung cấp những kỳ vọng thực tế cho người có nhu cầu OC, đồng thời chứng minh rằng OC trao cho phụ nữ quyền tự chủ về sinh sản.
Nguồn: Sarah Druckenmiller Cascante, Jennifer K. Blakemore, Shannon DeVore, Brooke Hodes-Wertz, M. Elizabeth Fino, Alan S. Berkeley, Carlos M. Parra, Caroline McCaffrey, James A. Grifo, Fifteen years of autologous oocyte thaw outcomes from a large university-based fertility center, Fertility and Sterility, Volume 118, Issue 1, 2022, Pages 158-166, ISSN 0015-0282, https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2022.04.013.
Trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện nay, phần lớn phụ nữ đang trì hoãn việc sinh con. Ở Mỹ, tuổi trung bình và tỷ lệ sinh con đầu lòng ở phụ nữ từ 35 tuổi trở lên ngày càng tăng. Để giải thích cho xu hướng này, giáo dục, nghề nghiệp, tài chính và lý do cá nhân đều được đề cập. Tuy nhiên, lựa chọn trì hoãn quá trình sinh sản không làm trì hoãn sự suy giảm khả năng sinh sản do tuổi tác (liên quan đến giảm số lượng và chất lượng noãn). Do đó, lựa chọn trở thành mẹ ở độ tuổi ≥35 thường phải đối mặt với những vấn đề như vô sinh, không thể đạt được quy mô gia đình mong muốn hay kết quả mang thai bất lợi.
Đông lạnh noãn (Oocyte cryopreservation: OC) hiện đang được thực hiện như một phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản ở nữ giới khi phải đối mặt với sự suy giảm khả năng sinh sản do tuổi tác. Công nghệ này không những cho phép phụ nữ hoãn việc sinh con mà còn duy trì lựa chọn có con của chính họ. Bên cạnh đó, các nghiên cứu trước đây chứng minh rằng OC cho tỷ lệ phôi nguyên bội và có thai tương tự như chuyển phôi tươi và không gây thêm bất kỳ rủi ro nào khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Sau khi Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ dỡ bỏ nhãn thử nghiệm khỏi OC vào năm 2012, việc sử dụng phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản này đã tăng lên đáng kể (tăng 880% ở Hoa Kỳ từ năm 2010 đến năm 2016).
Mặc cho nhu cầu OC ngày càng tăng và phản hồi tích cực về OC nhưng hầu hết bệnh nhân đông lạnh noãn vẫn chưa rã noãn ra để sử dụng. Vậy nên có rất ít dữ liệu về rã đông noãn. Thêm vào đó, báo cáo về rã đông noãn ở các trung tâm sinh sản công lập hay tư nhân hầu hết đều từ bệnh nhân vô sinh hoặc ung thư. Điều này càng gây khó khăn cho việc chẩn đoán, ngoại suy những trường hợp phụ nữ đông lạnh noãn tự thân chỉ vì suy giảm khả năng sinh sản do tuổi tác.
Vì dữ liệu về quá trình rã đông noãn quá ít ỏi nên việc tư vấn cho bệnh nhân về khả năng mang thai từ các noãn được bảo quản lạnh vẫn còn là ẩn số. Bác sĩ và bệnh nhân thường dựa vào các mô hình dự đoán sử dụng dữ liệu ngoại suy từ người hiến noãn và bệnh nhân IVF có dự trữ buồng trứng bình thường. Tuy nhiên, độ chính xác của các mô hình này vẫn chưa được hiểu rõ và một số lo ngại rằng OC có thể cung cấp cho phụ nữ sự an toàn sai lầm hơn là kỳ vọng thực tế. Cần hiểu rõ hơn tỷ lệ sinh sống (Live birth: LB) từ OC đối với phụ nữ suy giảm khả năng sinh sản do tuổi để hỗ trợ họ đưa ra quyết định. Hơn nữa, Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ đã kêu gọi thông tin cập nhật về chủ đề này. Do đó, hồi cứu thuần tập này được thiết lập để thu thập thông tin về tất cả các trường hợp rã đông noãn tự thân tại chính cơ sở hoạt động với mục đích công bố thông tin cập nhật.
Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm Sinh sản Langone của Đại học New York với tất cả các bệnh nhân thực hiện rã đông ≥1 noãn tự thân trước ngày 31 tháng 12 năm 2020. Loại trừ các bệnh nhân thực hiện OC vì chỉ định y tế như thiếu tinh trùng, thảm họa tự nhiên, kết hợp với phôi hoặc là một phần của quy trình nghiên cứu với mục đích rã đông noãn vào tháng tiếp theo, chẩn đoán ung thư hoặc có kế hoạch mang thai từ noãn hiến tặng. Ghi nhận tất cả các thông tin liên quan đến đông lạnh noãn, rã đông noãn và chuyển phôi của bệnh nhân. Kết quả chính là tỷ lệ sinh sống cuối cùng (final live birth rate – FLBR) trên mỗi bệnh nhân tức bệnh nhân có trẻ sinh sống hoặc sử dụng hết tất cả noãn bảo quản lạnh và phôi (nguyên bội/chưa được kiểm tra/ phôi không có kết quả) đang được bảo quản tại cơ sở hoặc đã được vận chuyển đến cơ sở khác, được hiến tặng hoặc loại bỏ. Các kết quả phụ là kết quả xét nghiệm, tỷ lệ làm tổ (IR) trên số lượng phôi được chuyển, tỷ lệ lệ sảy thai tự nhiên (spontaneous abortion rate - SABR) trên mỗi lần chuyển, tỷ lệ trẻ sinh sống (LB) trên mỗi lần chuyển.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tổng cộng 543 bệnh nhân với 800 ca đông lạnh noãn, 605 ca rã đông và 436 ca chuyển phôi. Tuổi trung bình của nữ giới ở lần bảo quản lạnh đầu tiên là 38,3 tuổi. Thời gian trung bình từ lần bảo quản lạnh đầu tiên đến khi rã đông là 4,2 năm. Số lượng trung bình của noãn và noãn ở giai đoạn kỳ giữa gỉảm phân II (M2) được rã đông trên mỗi bệnh nhân tương ứng là 14 và 12. Tỷ lệ sống chung của tất cả noãn sau rã đông là 79%. Trong số tất cả bệnh nhân, 61% đã trải qua ≥1 lần chuyển phôi. Thêm vào đó, trong số các lần chuyển phôi nguyên bội (n = 262) và phôi không sinh thiết (n = 158), tỷ lệ LB trên mỗi lần chuyển lần lượt là 55% và 31%. FLBR trên mỗi bệnh nhân là 39%. Theo đó, tuổi khi bảo quản lạnh và số lượng noãn M2 rã đông góp phần dự đoán kết quả LB. FLBR trên mỗi bệnh nhân là >50% đối với bệnh nhân dưới 38 tuổi khi bảo quản lạnh hoặc đã rã đông ≥20 noãn M2. Tổng số 173 bệnh nhân (32%) còn noãn/phôi đông lạnh hoặc cả noãn và phôi đông lạnh.
Tóm lại, OC tự thân là một phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản khả thi mang lại kết quả LB cho 39% bệnh nhân. Hầu hết bệnh nhân <38 tuổi thực hiện OC hoặc những người đã rã đông ≥20 noãn M2 đều có con từ quá trình rã đông noãn. Nghiên cứu này là báo cáo lớn nhất của Hoa Kỳ về kết quả rã đông từ OC đối với phụ nữ suy giảm khả năng sinh sản liên quan đến tuổi và cung cấp cái nhìn sâu sắc về kết quả OC. Cụ thể, cung cấp những kỳ vọng thực tế cho người có nhu cầu OC, đồng thời chứng minh rằng OC trao cho phụ nữ quyền tự chủ về sinh sản.
Nguồn: Sarah Druckenmiller Cascante, Jennifer K. Blakemore, Shannon DeVore, Brooke Hodes-Wertz, M. Elizabeth Fino, Alan S. Berkeley, Carlos M. Parra, Caroline McCaffrey, James A. Grifo, Fifteen years of autologous oocyte thaw outcomes from a large university-based fertility center, Fertility and Sterility, Volume 118, Issue 1, 2022, Pages 158-166, ISSN 0015-0282, https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2022.04.013.
Các tin khác cùng chuyên mục:
So sánh kết quả phôi từ hai phương pháp lọc rửa tinh trùng sử dụng ly tâm đẳng tỷ trọng và kênh dẫn vi lưu (Microfluidic) - Ngày đăng: 01-08-2022
Lọc rửa tinh trùng trực tiếp từ tinh dịch (không ly tâm) nhờ thiết bị vi dòng chảy theo xoắn ốc (MDDS) - Ngày đăng: 01-08-2022
Dự đoán ung thư tuyến tiền liệt và mối liên quan tăng bạch cầu bất thường trong tinh dịch? - Ngày đăng: 01-08-2022
Dinh dưỡng có giúp điều trị vô sinh hay không? - Ngày đăng: 01-08-2022
Chẩn đoán vô sinh nam: cải thiện việc thực hiện phân tích di truyền - Ngày đăng: 01-08-2022
TELOMERES – LÃO HÓA – SINH SẢN - Ngày đăng: 01-08-2022
Kết quả thụ tinh trong ống nghiệm sau khi điều trị viêm nội mạc tử cung mãn tính ở bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần - Ngày đăng: 13-07-2022
Ảnh hưởng của tuổi và hình thái phôi đến tỷ lệ sinh sống sau chuyển phôi nang chưa sinh thiết - Ngày đăng: 13-07-2022
Bảo tồn khả năng sinh sản cho phụ nữ bị ung thư vú: thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên đa trung tâm trên các quy trình kích thích buồng trứng khác nhau - Ngày đăng: 13-07-2022
Thụ tinh trong ống nghiệm đối với sự tiến hoá của loài người (phần 2) - Ngày đăng: 13-07-2022
Thụ tinh trong ống nghiệm đối với sự tiến hoá của loài người (Phần 1) - Ngày đăng: 13-07-2022
Đột biến De novo ở trẻ em sinh ra sau hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 11-07-2022
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK