Tin tức
on Thursday 18-03-2021 3:42am
Danh mục: Tin quốc tế
BS. Lê Tiểu My
Tỷ lệ mổ lấy thai có khuynh hướng tăng dần trên toàn thế giới, dẫn đến những tai biến và biến chứng liên quan đến mổ lấy thai gia tăng, kể cả các biến chứng ngắn hạn và dài hạn. Năm 2000, một nhóm các nhà nghiên cứu ở Thụy Sỹ lần đầu tiên công bố mô tả một dạng bệnh lý Sản phụ khoa “mới” – thai bám sẹo mổ lấy thai (Cesarean scar pregnancy – CSP). Kể từ đó, số bài báo về CSP bắt đầu tăng dần. Đáng chú ý là trong đó có vài tác giả bắt đầu cảnh báo rằng, ngay cả khi một trường hợp CSP được điều trị thành công vẫn có nguy cơ tái diễn ở thai kỳ tới. Tỷ lệ CSP cũng khá ít, và CSP tái diễn lại càng ít hơn. Việc tư vấn và giải thích cho bệnh nhân nguy cơ CSP tái diễn nhằm lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp, nhất là ở bệnh nhân có nguyện vọng bảo tồn chức năng sinh sản đôi khi không phải là điều dễ dàng. Cho đến nay vẫn chưa có dữ liệu về tỷ lệ tái phát cũng như chưa có đồng thuận dựa trên chứng cứ về các yếu tố nguy cơ CSP lặp lại ở thai kỳ tiếp theo, vì vậy càng khó để tư vấn cho bệnh nhân.
Một báo cáo loạt ca về CSP và tổng quan y văn về CSP vừa được công bố trên tạp chí Siêu âm Sản phụ khoa, với mục tiêu cung cấp thêm thông tin về tỷ lệ ước đoán CSP tái diễn cũng như mối liên quan giữa phương pháp điều trị và nguy cơ CSP tái diễn. Báo cáo này có tổng cộng 252 trường hợp CSP được tổng hợp dữ liệu. Tỷ lệ theo dõi trên lâm sàng dao động từ 71,4% đến 100%, tùy địa điểm điều trị (trung bình khoảng 90,9%). Trong số đó, có 105 trường hợp có thai lại sau khi được điều trị CSP. Trong nhóm bệnh nhân mang thai lại, có 36 (34,3%) thai kỳ là CSP tái diễn, với 27 bệnh nhân bị tái diễn một lần và 3 bệnh nhân CSP tái diễn nhiều lần (từ 2 - 4 lần). Kết quả phân tích cho thấy không có bất kỳ phương pháp điều trị đơn lẻ hoặc kết hợp nào trong điều trị CSP trước đó có liên quan đến CSP tái diễn. Y văn thu thập được gồm 17 bài báo, giúp cung cấp đủ thông tin để đánh giá và so sánh tỷ lệ CSP tái diễn. Tổng quan y văn ghi nhận 1743 chẩn đoán xác định CSP và 944 trường hợp đủ thông tin theo dõi. Có 489 trường hợp mong muốn có thai lại sau khi điều trị CSP, trong đó có 327 trường hợp có thai thành công. Tỷ lệ CSP tái diễn là 67/327 trường hợp, chiếm 20,5%.
Như vậy, tỷ lệ CSP tái diễn có vẻ khá cao và thông tin này cần được tư vấn cho bệnh nhân khi chẩn đoán CSP. Tuy nhiên, vẫn chưa tìm thấy mối tương quan giữa phương pháp điều trị và tỷ lệ CSP tái diễn, do đó cần nhiều dữ liệu hơn từ nghiên cứu sau này. Nhóm tác giả nghiên cứu khuyến cáo những trường hợp từng mắc CSP cần được thực hiện siêu âm ngả âm đạo sớm (từ 5 -7 tuần) để xác định vị trí thai.
Lược dịch từ: Recurrent Cesarean scar pregnancy: case series and literature review. Ultrasound in Obstetrics & Gynecology. Jan 2021
https://doi.org/10.1002/uog.2357
Tỷ lệ mổ lấy thai có khuynh hướng tăng dần trên toàn thế giới, dẫn đến những tai biến và biến chứng liên quan đến mổ lấy thai gia tăng, kể cả các biến chứng ngắn hạn và dài hạn. Năm 2000, một nhóm các nhà nghiên cứu ở Thụy Sỹ lần đầu tiên công bố mô tả một dạng bệnh lý Sản phụ khoa “mới” – thai bám sẹo mổ lấy thai (Cesarean scar pregnancy – CSP). Kể từ đó, số bài báo về CSP bắt đầu tăng dần. Đáng chú ý là trong đó có vài tác giả bắt đầu cảnh báo rằng, ngay cả khi một trường hợp CSP được điều trị thành công vẫn có nguy cơ tái diễn ở thai kỳ tới. Tỷ lệ CSP cũng khá ít, và CSP tái diễn lại càng ít hơn. Việc tư vấn và giải thích cho bệnh nhân nguy cơ CSP tái diễn nhằm lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp, nhất là ở bệnh nhân có nguyện vọng bảo tồn chức năng sinh sản đôi khi không phải là điều dễ dàng. Cho đến nay vẫn chưa có dữ liệu về tỷ lệ tái phát cũng như chưa có đồng thuận dựa trên chứng cứ về các yếu tố nguy cơ CSP lặp lại ở thai kỳ tiếp theo, vì vậy càng khó để tư vấn cho bệnh nhân.
Một báo cáo loạt ca về CSP và tổng quan y văn về CSP vừa được công bố trên tạp chí Siêu âm Sản phụ khoa, với mục tiêu cung cấp thêm thông tin về tỷ lệ ước đoán CSP tái diễn cũng như mối liên quan giữa phương pháp điều trị và nguy cơ CSP tái diễn. Báo cáo này có tổng cộng 252 trường hợp CSP được tổng hợp dữ liệu. Tỷ lệ theo dõi trên lâm sàng dao động từ 71,4% đến 100%, tùy địa điểm điều trị (trung bình khoảng 90,9%). Trong số đó, có 105 trường hợp có thai lại sau khi được điều trị CSP. Trong nhóm bệnh nhân mang thai lại, có 36 (34,3%) thai kỳ là CSP tái diễn, với 27 bệnh nhân bị tái diễn một lần và 3 bệnh nhân CSP tái diễn nhiều lần (từ 2 - 4 lần). Kết quả phân tích cho thấy không có bất kỳ phương pháp điều trị đơn lẻ hoặc kết hợp nào trong điều trị CSP trước đó có liên quan đến CSP tái diễn. Y văn thu thập được gồm 17 bài báo, giúp cung cấp đủ thông tin để đánh giá và so sánh tỷ lệ CSP tái diễn. Tổng quan y văn ghi nhận 1743 chẩn đoán xác định CSP và 944 trường hợp đủ thông tin theo dõi. Có 489 trường hợp mong muốn có thai lại sau khi điều trị CSP, trong đó có 327 trường hợp có thai thành công. Tỷ lệ CSP tái diễn là 67/327 trường hợp, chiếm 20,5%.
Như vậy, tỷ lệ CSP tái diễn có vẻ khá cao và thông tin này cần được tư vấn cho bệnh nhân khi chẩn đoán CSP. Tuy nhiên, vẫn chưa tìm thấy mối tương quan giữa phương pháp điều trị và tỷ lệ CSP tái diễn, do đó cần nhiều dữ liệu hơn từ nghiên cứu sau này. Nhóm tác giả nghiên cứu khuyến cáo những trường hợp từng mắc CSP cần được thực hiện siêu âm ngả âm đạo sớm (từ 5 -7 tuần) để xác định vị trí thai.
Lược dịch từ: Recurrent Cesarean scar pregnancy: case series and literature review. Ultrasound in Obstetrics & Gynecology. Jan 2021
https://doi.org/10.1002/uog.2357
Các tin khác cùng chuyên mục:
Thuật toán thông minh phân loại xếp hạng phôi (ERICA): trí tuệ nhân tạo hỗ trợ tiên lượng phôi nguyên bội và khả năng làm tổ - Ngày đăng: 16-03-2021
THỜI ĐIỂM KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ TRONG BỆNH CẢNH VỠ ỐI TRÊN THAI ĐỦ THÁNG - Ngày đăng: 16-03-2021
Quản lý cách sử dụng noãn có bất thường SER - Ngày đăng: 12-03-2021
ẢNH HƯỞNG CỦA SINH THIẾT TẾ BÀO LÁ NUÔI ĐỐI VỚI KẾT CỤC SẢN KHOA VÀ CHU SINH TRONG CHU KỲ CHUYỂN PHÔI ĐÔNG LẠNH - Ngày đăng: 08-03-2021
MỐI LIÊN HỆ GIỮA HỘI CHỨNG BUỒNG TRỨNG ĐA NANG VÀ NGUY CƠ DỊ TẬT TIM BẨM SINH Ở THẾ HỆ CON CÁI - Ngày đăng: 08-03-2021
CHUYỂN PHÔI NANG KHẢM - CƠ HỘI MỚI CHO BỆNH NHÂN - Ngày đăng: 08-03-2021
MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỨC LIPID MÁU VÀ CHẤT LƯỢNG PHÔI TRONG QUÁ TRÌNH THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM - Ngày đăng: 08-03-2021
Mối tương quan giữa kích thước phôi nang và tỷ lệ thai lâm sàng - Ngày đăng: 08-03-2021
SO SÁNH HIỆU QUẢ CÁC LOẠI THUỐC KÍCH THÍCH BUỒNG TRỨNG SỬ DỤNG TRÊN BỆNH NHÂN VÔ SINH KHÔNG RÕ NGUYÊN NHÂN THỰC HIỆN IUI - Ngày đăng: 03-03-2021
Có thể tiên lượng tiềm năng phát triển của phôi từ các thông số động học hay không? - Ngày đăng: 26-03-2021
Hoạt hoá noãn nhân tạo và nguy cơ mắc dị tật bẩm sinh: một phân tích gộp - Ngày đăng: 26-03-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK