Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 05-07-2019 4:48pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Nguyễn Hữu Duy – IVF Vạn Hạnh

Tỷ lệ thai lâm sàng sau khi điều trị IVF với chuyển đơn phôi chọn lọc (eSET) hiện vẫn chỉ dao động trong khoảng từ 30 đến 40%. Để tăng tỷ lệ mang thai và sinh sống, chuyển nhiều phôi vẫn là lựa chọn điều trị IVF phổ biến. Để tăng hiệu quả điều trị của IVF/ICSI cũng như để giảm số lượng phôi chuyển mỗi lần chuyển phôi, một số phương pháp lựa chọn phôi ít hoặc không xâm lấn đã được phát triển, bao gồm các xét nghiệm để đo các protein cụ thể hoặc cell free DNA trong dịch nang, phân tích biểu hiện gen trong các tế bào cumulus, phân tích microRNA trong môi trường đã nuôi cấy phôi nang, hoặc công nghệ quan sát hình ảnh phôi liên tục (time-lapse video monitoring). Mặc dù một số nghiên cứu đã báo cáo kết quả bước đầu đầy hứa hẹn, vẫn không có bằng chứng từ các thử nghiệm can thiệp tiến cứu về giá trị gia tăng của chúng khi so sánh với đánh giá hình thái phôi thông thường (ví dụ, đối với time-lapse).



Phân tích các tế bào cumulus (CC) có thể là một phương pháp xét nghiệm không xâm lấn phù hợp. CC được tách bỏ sau khi phức hợp noãn-cumulus được chọc hút ra một thời gian và do đó phân tích CC là không xâm lấn. Phân tích Cumulus mRNA với PCR định lượng (QPCR) là một phương pháp không xâm lấn. Tuy nhiên, cho đến nay, không có bộ gen nào trên CC được xác nhận có hiệu quả tiên lượng tiềm năng phát triển của phôi trong các nghiên cứu can thiệp tiến cứu.

Một nghiên cứu thí điểm đơn trung tâm can thiệp tiến cứu với hai nhóm chứng bắt cặp phù hợp (ngày 3 và ngày 5 eSET) của tác giả Adriaenssens và cộng sự (2019) từ tháng 10/2013 đến tháng 5/2016 được thực hiện ở 96 bệnh nhân đồng ý phân tích cumulus-corona của tế bào noãn của họ (được gọi chung là Corona Test). Các bệnh nhân trong nhóm chứng ngày 3 và ngày 5 chỉ được eSET dựa trên đánh giá hình thái phôi, không làm Corona Test. Tất cả các bệnh nhân được ICSI và eSET vào ngày 3. Mỗi noãn được tách riêng và cumulus được trữ lạnh. Chỉ những noãn thụ tinh 2PN thì cumulus mới được rã đông và phân tích bằng PCR định lượng (QPCR) bằng cách sử dụng ba gen dự đoán (EFNB2, SASH1, CAMK1D) và hai gen đối chứng (UBC và β2M). Kết quả Corona Test sẽ có sau 2 ngày tính từ ngày chọc hút. Sau khi áp dụng các tiêu chuẩn nhận/loại, còn 62 bệnh nhân thỏa các điều kiện nghiên cứu và có tối thiểu 2 phôi tốt ngày 3 (xếp loại dựa theo hình thái phôi). Các phôi này sau đó sẽ được chọn chuyển phôi dựa theo kết quả Corona Test. Trong số các phôi có chất lượng tốt tương đương về hình thái, một phôi có điểm Corona Test cao nhất sẽ được chọn chuyển phôi, các phôi còn lại sẽ được trữ lạnh theo điểm Corona Test giảm dần.

Kết quả nghiên cứu cho thấy Corona Test làm tăng đáng kể tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống (63% và 55%) so với chuyển đơn phôi (eSET) ở nhóm chứng ngày 3 (27% và 23%: p < 0,001) và nhóm chứng ngày 5 (43% và 39%: p = 0,022 và p = 0,050) khi chuyển phôi tươi. Thời gian mang thai đã giảm đáng kể, gần gấp 3 lần (ở 2 nhóm chứng cần khoảng 3 lần chuyển phôi để có thể có thai so với 1 lần chuyển phôi tươi đã có thai ở nhóm Corona Test), bất kể số lượng phôi tốt có vào ngày 3.

Như vậy, nghiên cứu này cho thấy sự cải thiện đáng kể (tăng gấp đôi) thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống trong chính sách eSET ngày 3 ở nhóm thử nghiệm lựa chọn phôi chuyển dựa trên sự kết hợp giữa đánh giá hình thái phôi và xét nghiệm biểu hiện gen bằng cách sử dụng Corona Test với ba gen dự đoán. Chiến lược Corona Test cũng tỏ ra vượt trội so với chính sách chuyển đơn phôi ngày 5 chỉ dựa trên hình thái. Corona Test cũng giúp giảm thời gian mang thai từ đó giúp giảm chi phí điều trị do có thể giảm được ba chu kỳ chuyển phôi của eSET ngày 3 và ngày 5 chỉ dựa trên hình thái phôi. Corona Test tránh chuyển nhiều phôi và loại bỏ hoàn toàn nguy cơ đa thai. Áp dụng Corona Test trong thực hành thường quy sẽ góp phần giảm căng thẳng cảm xúc của các cặp vợ chồng điều trị IVF nhờ giảm số lần chuyển phôi và tiết kiệm chi phí cho bệnh nhân.

Nguồn: Cumulus-corona gene expression analysis combined with morphological embryo scoring in single embryo transfer cycles increases live birth after fresh transfer and decreases time to pregnancy. T. Adriaenssens, I. Vaerenbergh, W. Coucke, I. Segers, G. Verheyen, E. Anckaert, M. Vos, J. Smitz. Journal of Assisted Reproduction and Genetics, 2019, Volume 36, Number 3, Page 433.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK