Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 02-07-2019 5:35pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
Phạm Hoàng Huy – Chuyên viên phôi học IVFMD Phú Nhuận
 
Hiện nay, chuyển phôi trữ (FET) được sử dụng rộng rãi ở các trung tâm hỗ trợ sinh sản vì các lợi ích mà nó mang lại. Các phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung cho FET bao gồm chu kì tự nhiên (NC-FET) và chu kì nhân tạo (AC-FET) với việc sử dụng hormone steroid ngoại sinh. Đối với NC-FET, thời điểm phóng noãn có thể được tính toán dựa trên thời điểm xuất hiện đỉnh LH trong máu (“true” NC-FET); sau khi trigger hCG (“modified” NC-FET) hoặc được hỗ trợ hoàng thể bằng progesterone (NC-LPS). Trong khi đó, AC-FET giúp những bệnh nhân có chu kì kinh nguyệt không đều giảm tần suất đến bệnh viện, dễ dàng sắp xếp ngày chuyển phôi và giảm tỉ lệ hủy bỏ chu kì. Một nghiên cứu thực hiện tại Trung Quốc đã so sánh hiệu quả lâm sàng của hai phác đồ chuyển phôi trữ NC-LPS và AC-FET.


Nghiên cứu hồi cứu này sử dụng dữ liệu của hơn 11.000 chu kì chuyển phôi trữ của một bệnh viện, bao gồm hai nhóm phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung NC-LPS (8.425 chu kì) và AC-FET (2.611 chu kì). Dữ liệu đặc điểm nền của bệnh nhân được ghi nhận; trong đó BMI, FSH nền, độ dày nội mạc tử cung và tuổi phôi chuyển là có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm. Sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu, tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ đa thai và tỉ lệ sẩy thai đều không có sự khác biệt giữa hai nhóm AC-FET và NC-LPS. Tuy nhiên, AC-FET cho tỉ lệ thai ngoài tử cung cao hơn NC-LPS (aOR 1,738; 95% CI, 1,086 – 2,781). Tỉ lệ trẻ sinh sống ở nhóm AC-FET thấp hơn đáng kể so với nhóm NC-LPS (aOR 0,709; 95% CI, 0,626 – 0,802). Về kết quả sản khoa, AC-FET có liên quan đến nguy cơ rối loạn tăng huyết áp thai kì (aOR, 1,780; 95% CI, 1,262 – 2,510) và sinh mổ (aOR, 1,507; 95% CI, 1,195 – 1,900). Trong những trường hợp đa thai, cân nặng trẻ sơ sinh: 2550g so với 2600g (P = 0,023); tuổi thai: 36,6 tuần so với 37,1 tuần (P < 0,001) tương ứng ở nhóm AC-FET so với NC-LPS; mặc dù không có sự khác biệt về các biến số này ở những trường hợp đơn thai.
Tóm lại, nghiên cứu này đã cho thấy rằng chuẩn bị nội mạc tử cung bằng phác đồ AC cho các kết cục sản khoa bất lợi hơn so với phác đồ NC. Các phát hiện này có thể đóng góp cho việc hướng dẫn lâm sàng trong các chu kỳ FET. Tác giả nhấn mạnh cần thêm các nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng để chứng minh hiệu quả của các phác đồ chuẩn bị nội mạc trong FET.
 
Nguồn: Increased pregnancy complications following frozen-thawed embryo transfer during an artificial cycle, Springer Nature 2019.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK