Tin tức
on Monday 22-04-2019 11:10am
Danh mục: Tin quốc tế
PHẠM HOÀNG HUY – Chuyên viên phôi học IVFMP Phú Nhuận
Trong hai thập kỉ qua, nhiều nghiên cứu đã chứng minh các dấu hiệu tiên lượng cho khả năng của phôi, hỗ trợ cho việc lựa chọn phôi chuyển. Cùng với sự ra đời của kỹ thuật Timelapse, nhiều thông số về mặt động học phát triển của phôi có giá trị cho tiềm năng làm tổ đã được ghi nhận. Ngoài ra, sự hiện diện của các bất thường trong phân bào như phân chia trực tiếp và phân chia ngược có thể tác động tiêu cực đến khả năng thụ thai cũng như tỉ lệ phôi nguyên bội.
Một khía cạnh khác của sự phát triển phôi cần khảo sát thêm là sự sắp xếp không gian của các phôi bào và các mô hình phân cắt dẫn đến sự hình thành phôi bốn tế bào. Bản thân noãn bào đã được chứng minh là có độ phân cực cao. Các protein có nguồn gốc từ mẹ được biểu hiện cao hơn ở cực động vật (gần thể cực) so với cực thực vật (cực đối nghịch). Do đó, sự phân chia tế bào dọc theo trục của cực động vật-thực vật (A-V) hay mặt vuông góc với trục này có thể ảnh hưởng đến hàm lượng tế bào chất trong các tế bào con. Sự sắp xếp tứ diện (TET) trong đó một phôi bào ở một mặt phẳng khác cho phép sự tiếp xúc giữa các phôi bào nhiều hơn so với sự sắp xếp không theo tứ diện (nTET). Điều này làm tăng sự tiếp xúc, cũng như thuận lợi cho quá trình nén ở giai đoạn sau.
Các nhà khoa học tại bệnh viện Cleveland, Mỹ đã thực hiện nghiên cứu với mục tiêu xác định xem sự sắp xếp không gian phôi bào có phản ánh tiềm năng phôi thai hay không.
Nghiên cứu hồi cứu sử dụng dữ liệu hình ảnh phôi Timelapse từ những bệnh nhân chuyển đơn phôi tươi ngày 5. Noãn bào sau khi thu nhận được thụ tinh với tinh trùng bằng kỹ thuật ICSI và sau đó được nuôi cấy đơn trong môi trường nuôi phôi (Vitrolife), với hệ thống EmbryoScope. Ba mặt phẳng phân chia đầu tiên cho đến giai đoạn phôi 4 tế bào được ghi nhận: mô hình phân tách theo trục A-V được phân loại là phân tách dọc (M-Meridonal), phân tách tế bào vuông góc với trục này được gọi là phân tách ngang (E-Equatorial). Thể cực đầu tiên được sử dụng để xác định trục A-V. Phôi được xếp vào nhóm TET khi một trong bốn phôi bào nằm ở một mặt phẳng khác, những trường hợp còn lại được xếp loại nTET.
Kết quả phân tích 716 phôi cho thấy nhóm TET và nTET khác nhau đáng kể về động học phát triển. Tỉ lệ phôi đa tiền nhân, phôi phân chia bất thường cao hơn trong phôi nhóm nTET. Chỉ có 44% phôi nTET so với 62,9% phôi TET được ghi là phôi nang chất lượng tốt (p < 0,001). Sau khi hiệu chỉnh theo tuổi, dữ liệu của nghiên cứu chỉ ra rằng phôi bào sắp xếp theo TET tăng đáng kể tỉ lệ có phôi nang hữu dụng (OR 3,58; CI 2,42 - 5,28, p < 0,001) khi so sánh với nhóm nTET. Có 164 phôi nang được chuyển đơn phôi tươi, tỉ lệ làm tổ cho phôi nang có nguồn gốc từ TET và nTET tương tự nhau (64,7% và 62%) và tỉ lệ sinh sống là 55% ở cả hai nhóm. Số phôi có lần phân chia tế bào đầu tiên là phân chia dọc theo trục A-V (M) chiếm 85% số phôi được chọn để chuyển. Với lần phân chia đầu tiên là M, mặt phẳng phân chia thứ 2 và thứ 3 dường như không ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng. Trong số 716 phôi được phân tích, số phôi phân tách dọc lần đầu tiên chiếm 94% và tỉ lệ tạo phôi nang ở nhóm này chiếm 63%. Ngược lại, phân tách ngang (E) ở lần đầu tiên cho tỉ lệ tạo phôi nang có biến động phụ thuộc vào trục phân tách lần thứ 2 và lần thứ 3: EEE (50%, 2/4), EEM (28,6%, 2/7), EMM (68,8%, 11/16), EME (71,4%, 10/14).
Tóm lại, phôi ở giai đoạn 4 tế bào có sắp xếp TET được dự đoán là có khả năng phát triển thành phôi nang chất lượng tốt để chuyển hoặc trữ lạnh. Sự sắp xếp không gian của phôi bào có thể là một tham số cho việc lựa chọn phôi chuyển nếu cần chuyển phôi ở giai đoạn phôi sớm.
Nguồn: Blastomere cleavage plane orientation and the tetrahedral formation are associated with increased probability of a good-quality blastocyst for cryopreservation or transfer: a time-lapse study, Fertility and Sterility, 2019.
Một khía cạnh khác của sự phát triển phôi cần khảo sát thêm là sự sắp xếp không gian của các phôi bào và các mô hình phân cắt dẫn đến sự hình thành phôi bốn tế bào. Bản thân noãn bào đã được chứng minh là có độ phân cực cao. Các protein có nguồn gốc từ mẹ được biểu hiện cao hơn ở cực động vật (gần thể cực) so với cực thực vật (cực đối nghịch). Do đó, sự phân chia tế bào dọc theo trục của cực động vật-thực vật (A-V) hay mặt vuông góc với trục này có thể ảnh hưởng đến hàm lượng tế bào chất trong các tế bào con. Sự sắp xếp tứ diện (TET) trong đó một phôi bào ở một mặt phẳng khác cho phép sự tiếp xúc giữa các phôi bào nhiều hơn so với sự sắp xếp không theo tứ diện (nTET). Điều này làm tăng sự tiếp xúc, cũng như thuận lợi cho quá trình nén ở giai đoạn sau.
Các nhà khoa học tại bệnh viện Cleveland, Mỹ đã thực hiện nghiên cứu với mục tiêu xác định xem sự sắp xếp không gian phôi bào có phản ánh tiềm năng phôi thai hay không.
Nghiên cứu hồi cứu sử dụng dữ liệu hình ảnh phôi Timelapse từ những bệnh nhân chuyển đơn phôi tươi ngày 5. Noãn bào sau khi thu nhận được thụ tinh với tinh trùng bằng kỹ thuật ICSI và sau đó được nuôi cấy đơn trong môi trường nuôi phôi (Vitrolife), với hệ thống EmbryoScope. Ba mặt phẳng phân chia đầu tiên cho đến giai đoạn phôi 4 tế bào được ghi nhận: mô hình phân tách theo trục A-V được phân loại là phân tách dọc (M-Meridonal), phân tách tế bào vuông góc với trục này được gọi là phân tách ngang (E-Equatorial). Thể cực đầu tiên được sử dụng để xác định trục A-V. Phôi được xếp vào nhóm TET khi một trong bốn phôi bào nằm ở một mặt phẳng khác, những trường hợp còn lại được xếp loại nTET.
Kết quả phân tích 716 phôi cho thấy nhóm TET và nTET khác nhau đáng kể về động học phát triển. Tỉ lệ phôi đa tiền nhân, phôi phân chia bất thường cao hơn trong phôi nhóm nTET. Chỉ có 44% phôi nTET so với 62,9% phôi TET được ghi là phôi nang chất lượng tốt (p < 0,001). Sau khi hiệu chỉnh theo tuổi, dữ liệu của nghiên cứu chỉ ra rằng phôi bào sắp xếp theo TET tăng đáng kể tỉ lệ có phôi nang hữu dụng (OR 3,58; CI 2,42 - 5,28, p < 0,001) khi so sánh với nhóm nTET. Có 164 phôi nang được chuyển đơn phôi tươi, tỉ lệ làm tổ cho phôi nang có nguồn gốc từ TET và nTET tương tự nhau (64,7% và 62%) và tỉ lệ sinh sống là 55% ở cả hai nhóm. Số phôi có lần phân chia tế bào đầu tiên là phân chia dọc theo trục A-V (M) chiếm 85% số phôi được chọn để chuyển. Với lần phân chia đầu tiên là M, mặt phẳng phân chia thứ 2 và thứ 3 dường như không ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng. Trong số 716 phôi được phân tích, số phôi phân tách dọc lần đầu tiên chiếm 94% và tỉ lệ tạo phôi nang ở nhóm này chiếm 63%. Ngược lại, phân tách ngang (E) ở lần đầu tiên cho tỉ lệ tạo phôi nang có biến động phụ thuộc vào trục phân tách lần thứ 2 và lần thứ 3: EEE (50%, 2/4), EEM (28,6%, 2/7), EMM (68,8%, 11/16), EME (71,4%, 10/14).
Tóm lại, phôi ở giai đoạn 4 tế bào có sắp xếp TET được dự đoán là có khả năng phát triển thành phôi nang chất lượng tốt để chuyển hoặc trữ lạnh. Sự sắp xếp không gian của phôi bào có thể là một tham số cho việc lựa chọn phôi chuyển nếu cần chuyển phôi ở giai đoạn phôi sớm.
Nguồn: Blastomere cleavage plane orientation and the tetrahedral formation are associated with increased probability of a good-quality blastocyst for cryopreservation or transfer: a time-lapse study, Fertility and Sterility, 2019.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Gen ảnh hưởng đến thời lượng thai kỳ và sinh non - Ngày đăng: 21-04-2019
Đánh giá mức độ đau trong siêu âm buồng tử cung ống dẫn trứng sử dụng chất tương phản vi bọt – Hyfosy - Ngày đăng: 17-04-2019
Siêu âm buồng tử cung ống dẫn trứng với chất tương phản vi bọt ít đau hơn chụp buồng tử cung ống dẫn trứng cản quang – thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng - Ngày đăng: 17-04-2019
Khoảng thời gian giữa hai lần mang thai và kết cục thai kỳ đơn thai sau chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 13-04-2019
Một đột biến mới của gen MEIOB là nguyên nhân của vô tinh và ngừng giảm phân ở tinh hoàn - Ngày đăng: 13-04-2019
Nguy cơ ung thư vú sau khi cho trứng: chúng ta có nên quan tâm? - Ngày đăng: 13-04-2019
Cập nhật: điện thoại di động và vô sinh nam - Ngày đăng: 13-04-2019
Hệ khuẩn chí ở cổ tử cung-âm đạo và đáp ứng miễn dịch tại chỗ có thể điều tiết nguy cơ sinh non tự nhiên - Ngày đăng: 13-04-2019
Các thông số động học time-lapse có dự đoán phôi nguyên bội được hay không? - Ngày đăng: 13-04-2019
Chuẩn bị tinh trùng cho ICSI bằng micro swim-up và phương pháp thang nồng độ không liên tục cho kết quả điều trị ICSI như thế nào? - Ngày đăng: 13-04-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK