Tin tức
on Saturday 13-04-2019 4:55pm
Danh mục: Tin quốc tế
Lê Thị Thu Thảo _ Chuyên viên phôi học _ IVFMD Tân Bình
Hiện nay, việc xin/cho noãn ngày càng phổ biến. Hiệp hội sinh sản người và phôi học châu Âu đã báo cáo trong năm 2012 có 17.728 chu kỳ cho noãn (ESRHE, 2016), tăng 10% so với năm 2010. Hiện tại các chu kỳ cho noãn chiếm hơn 10% tất cả các chu kỳ IVF thực hiện tại Hoa Kỳ. Việc cho noãn tăng cao nên vấn đề đảm bảo sức khỏe, quyền lợi, sàng lọc yếu tố di truyền của cá nhân cho noãn vô cùng quan trọng (ASRM, ESHRE). Nghiên cứu Schneider và cộng sự (2017) đã báo cáo có 5 trường hợp phụ nữ trẻ được chẩn đoán ung thư vú khi trải qua quá trình kích thích buồng trứng vài năm sau đó. Chính vì vậy, một giả thuyết đặt ra là liệu việc kích thích buồng trứng có liên quan đến sự phát triển tiếp theo của ung thư vú. Nếu điều này xảy ra, việc đảm bảo sức khỏe cho các cá nhân cho noãn là vô cùng cần thiết và quan trọng.
Cùng nhìn nhận lại báo cáo của Schneider và cộng sự (2017) thì độ tuổi dao động của người phụ nữ cho noãn từ 21 đến 34 tuổi, số noãn lấy ra khoảng 28 - 33 noãn/chu kỳ và có những phụ nữ từng được kích thích buồng trứng để cho noãn đến 10 lần. Hội chứng quá kích buồng trứng cũng xảy ra vài lần với một số người. Vì vậy việc kích thích buồng trứng quá nhiều có thể là nguy cơ để phát triển bệnh ung thư vú sau đó. Nhìn chung, nguy cơ mắc bệnh ung thư vú ở phụ nữ khoảng 12% và khoảng 10% phụ nữ được chẩn đoán mắc ung thư vú ở độ tuổi trẻ hơn 40 tuổi (DeSantis và cộng sự, 2016). Như vậy, giả định nếu 20.000 chu kỳ cho noãn được thực hiện hàng năm tại Hoa Kỳ, trong đó khoảng 5.000 phụ nữ trải qua kích thích buồng trứng thì có khoảng 50 phụ nữ có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư vú.
Nguy cơ ung thư vú thường tăng ở phụ nữ có kinh nguyệt sớm, mãn kinh muộn, tiền sử gia đình có bệnh hoặc đột biến gen. Tần suất xuất hiện ung thư vú ở các cá thể cho noãn sẽ cực kỳ thấp nhưng cũng không thể bỏ qua yếu tố này ở các trường hợp trải qua kích thích buồng trứng nhiều lần. Vì vậy cần có nhiều nghiên cứu hơn trong việc theo dõi tình trạng của các cá nhân cho noãn và các trường hợp điều trị IVF để có thêm thông tin về nguy cơ xuất hiện ung thư vú ở phụ nữ.
Nguồn: Breast cancer risk after oocyte donation: should we really be concerned? Reproductive Biomedicine Online (2017)/ 10.1016/j.rbmo.2017.03.005
Các tin khác cùng chuyên mục:
Cập nhật: điện thoại di động và vô sinh nam - Ngày đăng: 13-04-2019
Hệ khuẩn chí ở cổ tử cung-âm đạo và đáp ứng miễn dịch tại chỗ có thể điều tiết nguy cơ sinh non tự nhiên - Ngày đăng: 13-04-2019
Các thông số động học time-lapse có dự đoán phôi nguyên bội được hay không? - Ngày đăng: 13-04-2019
Chuẩn bị tinh trùng cho ICSI bằng micro swim-up và phương pháp thang nồng độ không liên tục cho kết quả điều trị ICSI như thế nào? - Ngày đăng: 13-04-2019
Tính chính xác của siêu âm buồng tử cung ống dẫn trứng bằng chất tương phản so với bơm nước muối sinh lý và phẫu thuật nội soi - Ngày đăng: 10-04-2019
Dự hậu của thai sống trong trường hợp song thai một thai lưu – kết quả tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 06-04-2019
Aspirin làm chậm tiến triển của tiền sản giật - Ngày đăng: 04-04-2019
Thành công trong sử dụng nhau thai nhân tạo để hỗ trợ sự sống trường hợp thai cực non ở cừu - Ngày đăng: 04-04-2019
Siêu âm buồng tử cung vòi trứng với chất tương phản – tính an toàn và hiệu quả - Ngày đăng: 04-04-2019
So sánh kẹp dây rốn chậm và vuốt máu dây rốn ở trẻ sinh non - Ngày đăng: 02-04-2019
Cập nhật tổng quan hệ thống và phân tích gộp các biện pháp dự phòng sinh non - Ngày đăng: 02-04-2019
Cùng nhìn lại mối quan hệ giữa vitamin D và dự trữ buồng trứng - Ngày đăng: 01-04-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK