Tin tức
on Saturday 13-04-2019 4:50pm
Danh mục: Tin quốc tế
Hiện nay, đánh giá hình thái phôi là phương pháp phổ biến để lựa chọn phôi chuyển tuy nhiên phương pháp này vẫn còn một số hạn chế và cũng không thể dự đoán được đặc điểm di truyền cũng như khả năng làm tổ của phôi. Kỹ thuật PGT-A cũng được sử dụng để lựa chọn phôi, cho phép xác định được đặc điểm di truyền của phôi nhưng đây là kỹ thuật xâm lấn, đòi hỏi kỹ năng kỹ thuật cao, cần thời gian trả kết quả và tăng chi phí điều trị. Vì vậy một phương pháp lựa chọn phôi không xâm lấn, nhanh chóng và hạn chế chi phí điều trị cho bệnh nhân là điều cần thiết. Kỹ thuật time-lapse xuất hiện cho phép theo dõi phôi liên tục trong suốt quá trình phát triển tiền làm tổ và được xem như là một kỹ thuật mới để lựa chọn phôi chuyển không xâm lấn. Đã có một số nghiên cứu tiến hành thực hiện đánh giá mối tương quan giữa các thông số động học hình thái và tình trạng nhiễm sắc thể của phôi, tuy nhiên thiết kế nghiên cứu và kết quả đưa ra vẫn còn nhiều tranh cãi vì vậy Arnaud Reignier và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu tổng quan hệ thống này nhằm đánh giá toàn diện giá trị dự đoán của các thông số động học về tình trạng nguyên bội của phôi.
Có tổng cộng 13 bài nghiên cứu được chọn để thu thập dữ liệu và phân tích, trong đó đa số là nghiên cứu hồi cứu với cỡ mẫu của mỗi nghiên cứu về số cặp bệnh nhân thực hiện chu kỳ IVF-PGS từ 25 đến 530 cùng với số phôi được phân tích từ 53 đến 928 phôi. Đa số các nghiên cứu này có chỉ định PGS do bệnh nhân lớn tuổi, sẩy thai liên tiếp, thất bại làm tổ nhiều lần. Đa số các nghiên cứu sử dụng chung một loại tủ time-lapse.
Trong tổng số 12 nghiên cứu, tỉ lệ phôi nguyên bội được báo cáo trong khoảng 24,5% đến 49,8% và tỉ lệ này có xu hướng cao hơn khi sinh thiết phôi nang thay vì phôi giai đoạn phân chia.
Về mối liên quan giữa các thông số động học với tình trạng nguyên bội của phôi, các nghiên cứu thực hiện ở phôi giai đoạn phân chia cho thấy thời gian phân chia của phôi bào có thể xác định được phôi nguyên bội. Các nghiên cứu thực hiện ở giai đoạn phôi nang thì cho thấy thời gian nén và hình thành khoang nang là yếu tố dự đoán phôi nguyên bội. Tuy nhiên, do không đồng nhất về cách thiết kế, cỡ mẫu, phương pháp thống kê được sử dụng nên không có thông số nào được kết hợp để đánh giá tình trạng nguyên bội hay lệch bội của phôi. Cuối cùng các nghiên cứu này đưa ra kết luận rằng time-lapse không được xem là phương pháp không xâm lấn để đánh giá tình trạng nhiễm sắc thể của phôi.
Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận
Nguồn: Can time-lapse parameters predict embryo ploidy? A systematic review. Reproductive biomedicine online. 10.1016/j.rbmo.2018.01.001
Có tổng cộng 13 bài nghiên cứu được chọn để thu thập dữ liệu và phân tích, trong đó đa số là nghiên cứu hồi cứu với cỡ mẫu của mỗi nghiên cứu về số cặp bệnh nhân thực hiện chu kỳ IVF-PGS từ 25 đến 530 cùng với số phôi được phân tích từ 53 đến 928 phôi. Đa số các nghiên cứu này có chỉ định PGS do bệnh nhân lớn tuổi, sẩy thai liên tiếp, thất bại làm tổ nhiều lần. Đa số các nghiên cứu sử dụng chung một loại tủ time-lapse.
Trong tổng số 12 nghiên cứu, tỉ lệ phôi nguyên bội được báo cáo trong khoảng 24,5% đến 49,8% và tỉ lệ này có xu hướng cao hơn khi sinh thiết phôi nang thay vì phôi giai đoạn phân chia.
Về mối liên quan giữa các thông số động học với tình trạng nguyên bội của phôi, các nghiên cứu thực hiện ở phôi giai đoạn phân chia cho thấy thời gian phân chia của phôi bào có thể xác định được phôi nguyên bội. Các nghiên cứu thực hiện ở giai đoạn phôi nang thì cho thấy thời gian nén và hình thành khoang nang là yếu tố dự đoán phôi nguyên bội. Tuy nhiên, do không đồng nhất về cách thiết kế, cỡ mẫu, phương pháp thống kê được sử dụng nên không có thông số nào được kết hợp để đánh giá tình trạng nguyên bội hay lệch bội của phôi. Cuối cùng các nghiên cứu này đưa ra kết luận rằng time-lapse không được xem là phương pháp không xâm lấn để đánh giá tình trạng nhiễm sắc thể của phôi.
Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận
Nguồn: Can time-lapse parameters predict embryo ploidy? A systematic review. Reproductive biomedicine online. 10.1016/j.rbmo.2018.01.001
Các tin khác cùng chuyên mục:
Chuẩn bị tinh trùng cho ICSI bằng micro swim-up và phương pháp thang nồng độ không liên tục cho kết quả điều trị ICSI như thế nào? - Ngày đăng: 13-04-2019
Tính chính xác của siêu âm buồng tử cung ống dẫn trứng bằng chất tương phản so với bơm nước muối sinh lý và phẫu thuật nội soi - Ngày đăng: 10-04-2019
Dự hậu của thai sống trong trường hợp song thai một thai lưu – kết quả tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 06-04-2019
Aspirin làm chậm tiến triển của tiền sản giật - Ngày đăng: 04-04-2019
Thành công trong sử dụng nhau thai nhân tạo để hỗ trợ sự sống trường hợp thai cực non ở cừu - Ngày đăng: 04-04-2019
Siêu âm buồng tử cung vòi trứng với chất tương phản – tính an toàn và hiệu quả - Ngày đăng: 04-04-2019
So sánh kẹp dây rốn chậm và vuốt máu dây rốn ở trẻ sinh non - Ngày đăng: 02-04-2019
Cập nhật tổng quan hệ thống và phân tích gộp các biện pháp dự phòng sinh non - Ngày đăng: 02-04-2019
Cùng nhìn lại mối quan hệ giữa vitamin D và dự trữ buồng trứng - Ngày đăng: 01-04-2019
Hiệu quả can thiệp dinh dưỡng tiền sản ở phụ nữ mang thai với tăng cân thai kỳ và cân nặng thai - Ngày đăng: 01-04-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK