Tin tức
on Monday 25-03-2019 10:15pm
Danh mục: Tin quốc tế
Th.S. Nguyễn Hữu Duy – chuyên viên phôi học – IVF Vạn Hạnh
Tiềm năng phát triển của phôi một phần được quyết định bởi chất lượng noãn. Thông thường, chất lượng noãn được đánh giá chủ yếu dựa trên các đặc điểm hình thái bên ngoài. Trong thụ tinh trong ống nghiệm, có khoảng 60 - 70% noãn sau chọc hút có mang ít nhất một đặc điểm bất thường về hình thái. Những bất thường về hình thái này thường được phân thành 2 loại là bên trong tế bào chất (ví dụ: không bào, thể vùi, mạng lưới nội chất trơn, độ mịn bào tương), và bên ngoài tế bào chất (ví dụ: các bất thường ở màng zona, PVS rộng, sự phân mảnh thể cực và hình dạng noãn bất thường). Người ta cho rằng một số bất thường về hình thái của noãn có thể ảnh hưởng đến khả năng phát triển và tiềm năng làm tổ của phôi nhưng ảnh hưởng của chúng vẫn chưa được kết luận rõ ràng.
Trữ lạnh noãn trước đây là một thách thức do khác với phôi, noãn rất dễ bị tổn thương bởi quá trình động lạnh – rã đông. Tuy nhiên, với sự ra đời của kỹ thuật trữ lạnh bằng phương pháp thủy tinh hóa, trữ lạnh noãn đã được ứng dụng phổ biến và thường quy trong thụ tinh trong ống nghiệm. Đối với noãn có hình thái bất thường, ảnh hưởng của quá trình thủy tinh hóa vẫn là một vấn đề chưa được giải quyết. Sự hiện diện của các kiểu bất thường về hình thái có thể ảnh hưởng đến sự xâm nhập của các chất bảo vệ đông lạnh (CPA) vào noãn và do đó làm ảnh hưởng đến sự hình thành trạng thái thủy tinh hóa cần thiết cho sự thành công của kỹ thuật thủy tinh hóa. Ngoài ra, người ta cũng không biết liệu quá trình thủy tinh hóa có thể đóng vai trò như một yếu tố bên ngoài có thể thay đổi các tác động tiềm tàng nếu có của các bất thường về hình thái. Do đó, tác giả Aila Coello và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu với mục đích đánh giá ảnh hưởng của các kiểu bất thường về hình thái noãn đến tỉ lệ sống sau rã đông, sự thụ tinh và phát triển phôi ở các noãn tự thân đông lạnh bằng kỹ thuật thủy tinh hóa. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng phân tích ảnh hưởng của loại và số lượng bất thường về hình thái trên các biến trên.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu từ tháng 12-2011 đến tháng 10-2016, so sánh tỷ lệ sống, tỉ lệ thụ tinh và tỉ lệ phát triển phôi sau rã đông giữa noãn có hình thái bình thường (n = 269) và noãn có hình thái bất thường (n = 147). Các noãn bất thường về hình thái được chụp hình trước lúc trữ lạnh và sau khi rã đông để so sánh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sống sau rã đông là 81,4% ở nhóm noãn hình thái bình thường và 87,1% ở nhóm noãn hình thái bất thường (OR 1,53; 95%, khoảng tin cậy 0,86 đến 2,72). Nhóm noãn hình thái bình thường và nhóm noãn hình thái bất thường lần lượt có tỷ lệ thụ tinh là 69,9% so với 66,4% (OR 0,85; 95%, khoảng tin cậy 0,53 đến 1,36), tỷ lệ phôi chất lượng tốt vào ngày 3 là 30,3% so với 32,0% (OR 1,08; 95%, khoảng tin cậy 0,59 đến 1,97) và tỷ lệ hình thành phôi nang là 54,5% so với 60,5% (OR 1,27; 95%, khoảng tin cậy 0,60 đến 2,72). Các sự khác biệt trên đều không có ý nghĩa thống kê. Loại hình thái noãn bất thường phổ biến trong nghiên cứu là bào tương hạt vùng trung tâm tế bào chất (CLG) (40,8%) và màng ZP bất thường (38,8%). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê đối với số lượng (một bất thường so với nhiều bất thường trên một noãn) và loại hình thái bất thường (bên ngoài tế bào chất so với bên trong tế bào chất) được phân tích. Ngoài ra, khi phân tích các yếu tố gây nhiễu như tuổi vợ, BMI, thời gian kích thích buồng trứng, nồng độ E2 ngày tiêm hCG, thời gian trữ lạnh, nhóm nghiên cứu không thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của các yếu tố nhiễu này lên tỉ lệ sống sau rã đông của noãn hình thái bất thường. Hạn chế của nghiên cứu là không phân tích riêng từng loại hình thái bất thường noãn, chỉ đánh giá ở mức độ phôi, không đánh giá yếu tố trẻ sinh sống ở các trường hợp noãn có hình thái bất thường.
Tóm lại, kết quả nghiên cứu này cho thấy khi trữ lạnh các noãn hình thái bất thường dường như không ảnh hưởng đến các kết quả sau rã đông như tỉ lệ sống sót, sự thụ tinh và sự phát triển của phôi cũng như cho kết quả tương đương với các noãn bình thường về hình thái.
Nguồn: Effect of oocyte morphology on post-warming survival and embryo development in vitrified autologous oocytes.
Coello, Aila et al. Reproductive BioMedicine Online, Volume 38, Issue 3, 313 - 320
Các tin khác cùng chuyên mục:
NỒNG ĐỘ DNA TY THỂ Ở TẾ BÀO CUMULUS GIÚP DỰ ĐOÁN KHẢ NĂNG LÀM TỔ CỦA PHÔI - Ngày đăng: 25-03-2019
Tác động của Progesterone đặt âm đạo lên các chỉ số Doppler động mạch tử cung, động mạch rốn và động mạch não giữa - Ngày đăng: 24-03-2019
Chi phí - Hiệu quả của liệu pháp Corticosteroids trước sinh ở những phụ nữ có nguy cơ sinh non muộn - Ngày đăng: 24-03-2019
Đồng thuận về chẩn đoán và xử trí nhau cài răng lược (ACOG – American College of Obstetricians and Gynecologists và SMFM – Society for Maternal Fetal Medicine) - Ngày đăng: 22-03-2019
Đo tỉ số não rốn thường quy ở thai 35-37 tuần có lợi không? - Ngày đăng: 22-03-2019
Đồng nuôi cấy tế bào nội mạc tử cung tự thân cải thiện chất lượng phôi nang: một thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng - Ngày đăng: 18-03-2019
Mối tương quan giữa phương pháp trữ lạnh với phân mảnh DNA, tiềm năng màng ti thể và sự hiện diện của không bào của tinh trùng thủ thuật - Ngày đăng: 18-03-2019
Polyp nội mạc tử cung ảnh hưởng đến sự tiếp nhận của nội mạc tử cung - Ngày đăng: 18-03-2019
Hướng dẫn thực hành lâm sàng dựa trên bằng chứng trường hợp nhau bám bất thường - Ngày đăng: 18-03-2019
Tổng quan hệ thống về khâu cổ tử cung ngả bụng qua phẫu thuật mở bụng và nội soi trong dự phòng sinh non - Ngày đăng: 18-03-2019
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK