Tin tức
on Tuesday 31-07-2018 3:05pm
Danh mục: Tin quốc tế
Bệnh tim bẩm sinh (TBS) chiếm tỉ lệ khoảng 800/100.000 trẻ sinh ra, và khoảng 1/4 số trẻ này mắc TBS nặng (CCHD- critical congenital heart disease). Để phát hiện những dị dạng TBS nặng này, tại Hoa Kỳ, nhiều bang đã tiến hành tầm soát độ bão hòa oxy máu thường quy cho tất cả trẻ sơ sinh trong vòng 24 giờ đầu sau sinh. Nhiều bang đã dần dần chấp nhận thực hành này, nhưng việc thực hiện còn chưa nhất quán.
Để đánh giá hiệu quả tiềm năng thật sự của việc tầm soát độ bão hòa oxy máu trong phát hiện TBS nặng, 1 nghiên cứu gần đây đã đánh giá lại những kế hoạch tầm soát từ năm 2011-2013 và so sánh tỉ lệ tử vong do TBS nặng ở những bang đã thực hiện tầm soát với những bang chưa thực hiện tầm soát.
Nghiên cứu trên đã sử dụng các số liệu từ Trung tâm quốc gia về thống kê y tế, Trung tâm ngăn ngừa và kiểm soát dịch bệnh. Các trẻ sơ sinh được phân loại vào các nhóm bao gồm: nhóm chắc chắn được tầm soát (trẻ được sinh ở thời điểm mà bang nơi trẻ sinh đã ban hành quyết định tầm soát), nhóm tầm soát tự nguyện (trẻ sinh ra ở thời điểm mà bang nơi trẻ sinh đã chấp nhận chính sách nhưng chưa thực hiện tầm soát một cách đầy đủ) và nhóm không được tầm soát.
Kết quả ghi nhận có 8 bang thực hiện tầm soát bắt buộc TBS nặng, 5 bang chấp nhận chính sách tầm soát tự nguyện, 9 bang chấp nhận chính sách tầm soát bắt buộc nhưng chưa ban hành quyết định tầm soát.
v Một số kết quả chính:
Trên toàn Hoa Kỳ, trong giai đoạn 2007-2012, tỉ lệ tử vong do TBS nặng giảm nhẹ khoảng 2,8%/ năm. Tuy nhiên, xu hướng này không thấy ở những bang thực hiện tầm soát TBS nặng muộn hơn. Sau khi điều chỉnh đầy đủ, tỉ lệ tử vong do TBS nặng giảm 33,4 %/ năm (KTC 95%, 10.6% - 50.3%) ở những bang thực hiện tầm soát bắt buộc, giảm tuyệt đối 3,9 ca tử vong/100.000 ca sinh.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ tử vong do TBS nặng ở những bang thực hiện tầm soát tự nguyện so với những bang không có chính sách tầm soát. Tuy nhiên, ở những bang thực hiện tầm soát bắt buộc TBS nặng, tỉ lệ tử vong giảm đáng kể khi so với những bang thực hiện tầm soát tự nguyện.
Nghiên cứu trên đã cung cấp những dữ liệu ủng hộ việc thực hiện tầm soát TBS nặng một cách thường quy. Thông qua các kết quả đạt được, tác giả của nghiên cứu mong muốn mang lại được câu trả lời cho những nhân viên y tế còn hoài nghi về việc thực hiện chương trình này. Việc thực hiện tầm soát chắc chắn không dễ dàng, nhưng nhiều nhân viên y tế hiện nay đã có những câu chuyện “truyền miệng” về những tình huống trẻ sơ sinh được phát hiện sớm TBS nặng thay vì sẽ bị xuất viện và bỏ sót TBS nặng nếu không thực hiện tầm soát.Các tác giả cũng hi vọng rằng với thời gian, khi có nhiều hơn nữa những dữ liệu về dịch tễ học, việc tầm soát sẽ được cải thiện và những rào cản trong việc thực hiện sẽ được vượt qua.
BS. Nguyễn Thị Ngạn - Đơn nguyên sơ sinh BV Mỹ Đức
(Nguồn: Medscape)
Các tin khác cùng chuyên mục:
Phôi khảm: Thách thức cho xét nghiệm di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 31-07-2018
Rối loạn thượng di truyền ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản ở nhóm vô sinh nam - Ngày đăng: 26-07-2018
Vai trò của kháng sinh đối với thai kỳ có ối vỡ non trên thai non tháng - Ngày đăng: 25-07-2018
Nồng độ FSH huyết thanh cao liên quan đến sự hình thành noãn nâu và tỉ lệ thai thấp trong TTTON - Ngày đăng: 13-07-2018
Bất thường hình thái liên quan đến biến đổi khung xương tế bào trong noãn người - Ngày đăng: 13-07-2018
Hướng dẫn lâm sàng quốc tế dựa trên bằng chứng về chẩn đoán và điều trị hội chứng buồng trứng đa nang 2018 - Ngày đăng: 12-07-2018
Bổ sung các chế phẩm chống oxy hóa không cải thiện chất lượng tinh trùng ở nam giới hiếm muộn - Ngày đăng: 06-07-2018
So sánh Carbetocin bền vững nhiệt và Oxytocin trong dự phòng băng huyết sau sinh ngả âm đạo - Ngày đăng: 03-07-2018
So sánh giữa bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) và thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) ở nhóm bệnh nhân đáp ứng kém: Một tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 02-07-2018
Progesterone đặt âm đạo và khâu cổ tử cung có hiệu quả tương đương trong dự phòng sinh non ở thai phụ đơn thai, tiền sử sinh non và chiều dài kênh cổ tử cung ngắn – cập nhật phân tích gộp so sánh gián tiếp - Ngày đăng: 02-07-2018
MicroRNAs trong môi trường nuôi cấy phôi nang được tiết ra từ các tế bào lá nuôi và có thể giúp đánh giá tiềm lực làm tổ của phôi người - Ngày đăng: 02-07-2018
Sử dụng kháng viêm non-steroid khi có thai và nguy cơ sẩy thai - Ngày đăng: 29-06-2018
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK