Tin tức
on Friday 13-07-2018 3:48pm
Danh mục: Tin quốc tế
Noãn có ZP nâu được gọi là noãn nâu – một loại bất thường hình thái của noãn. Hiện nay, màu sắc của ZP ảnh hưởng như thế nào đến kết cục lâm sàng vẫn chưa rõ ràng. Một số nghiên cứu cho thấy rằng noãn nâu không tương quan với kết cục thai lâm sàng (Esfandiari và cs, 2006); còn ngược lại chứng minh rằng có mối tương quan với giảm tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ làm tổ và thai (Shi W và cs, 2014). Hơn nữa, Sanchez F và cs (2010) còn khẳng định rằng nguyên nhân làm noãn bị nâu là quá trình kích thích buồng trứng.
Liều cao FSH ngoại sinh có thể gây bất thường đến sự biểu hiện gen của nang có hốc và tế bào hạt, như rối loạn chức năng tế bào hạt và sự phát triển bất thường của noãn. Một nghiên cứu cho thấy rằng liều cao FSH gây bất thường hình thái noãn: ZP, tế bào chất, thể cực (O'Callaghan và cs, 2000); giảm chất lượng noãn và phôi (Li M và cs, 2013).
Do đó, để làm sáng tỏ nguyên nhân gây ra sự biến đổi màu sắc ZP và sự tác động của ZP nâu đến kết cục lâm sàng, nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu so sánh các đặc tính lâm sàng, thời gian và liều gonadotropin, nồng độ hormone huyết thanh (E2, FSH) trước ngày tiêm hCG, đường kính ZP, các tỉ lệ thụ tinh, phôi tốt, tỉ lệ thai trong chu kỳ IVF giữa nhóm noãn nâu (n=664 noãn/ 74 bệnh nhân) so với nhóm chứng (n= 5160 noãn MII bình thường/ 629 bệnh nhân).
Kết quả thu được là chỉ có tỉ lệ tạo phôi tốt và thai lâm sàng của nhóm noãn nâu thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (lần lượt p=0,007 và 0,03). Đường kính ZP của noãn nâu lớn hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với nhóm chứng. Nồng độ FSH huyết thanh trước khi tiêm hCG của nhóm noãn nâu cao hơn đáng kể (p=0,02). Đồng thời, nhóm còn quan sát thấy hầu hết các tế bào hạt của noãn nâu rời rạc nhưng sẫm màu và kết cụm, chứng tỏ tế bào hạt có thể vẫn chưa trưởng thành. ZP được cấu thành từ các glycoprotein ZP1, ZP2, ZP3, có nguồn gốc từ noãn và tế bào hạt tiết ra. Tuy nhiên, sự tổng hợp và tiết bất thường protein ZP là từ các tế bào hạt (Peluso C, 2015). Giả thuyết nhóm tác giả đặt ra để giải thích là có thể liều FSH ngoại sinh cao liên tục xâm nhập vào dịch nang, dẫn đến bất thường sự tổng hợp và tiết protein cấu thành ZP từ các tế bào hạt. Cuối cùng, điều này dẫn đến các tế bào hạt chưa trưởng thành, với biểu hiện rời rạc quá mức hoặc kết cụm.
Như vậy, nồng độ FSH huyết thanh trong chu kỳ IVF-ET cao tương quan với sự hình thành noãn nâu- ZP nâu dày và ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi, dẫn đến tỉ lệ thai giảm. Ngược lại, không có mối tương quan giữa noãn nâu với các yếu tố khác như độ tuổi, BMI, thời gian và nguyên nhân vô sinh. Vì vậy, giới hạn liều FSH trong kích thích buồng trứng là điều quan trọng để tạo các noãn chất lượng tốt.
Trần Hà Lan Thanh – Chuyên viên phôi học IVFMD Phú Nhuận
Nguồn: High Serum FSH is Associated with Brown Oocyte Formation and a Lower Pregnacy Rate in Human IVF Parctice, Cell Physiol Biochem 2016;39:677-684.
Liều cao FSH ngoại sinh có thể gây bất thường đến sự biểu hiện gen của nang có hốc và tế bào hạt, như rối loạn chức năng tế bào hạt và sự phát triển bất thường của noãn. Một nghiên cứu cho thấy rằng liều cao FSH gây bất thường hình thái noãn: ZP, tế bào chất, thể cực (O'Callaghan và cs, 2000); giảm chất lượng noãn và phôi (Li M và cs, 2013).
Do đó, để làm sáng tỏ nguyên nhân gây ra sự biến đổi màu sắc ZP và sự tác động của ZP nâu đến kết cục lâm sàng, nhóm tác giả tiến hành nghiên cứu so sánh các đặc tính lâm sàng, thời gian và liều gonadotropin, nồng độ hormone huyết thanh (E2, FSH) trước ngày tiêm hCG, đường kính ZP, các tỉ lệ thụ tinh, phôi tốt, tỉ lệ thai trong chu kỳ IVF giữa nhóm noãn nâu (n=664 noãn/ 74 bệnh nhân) so với nhóm chứng (n= 5160 noãn MII bình thường/ 629 bệnh nhân).
Kết quả thu được là chỉ có tỉ lệ tạo phôi tốt và thai lâm sàng của nhóm noãn nâu thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (lần lượt p=0,007 và 0,03). Đường kính ZP của noãn nâu lớn hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với nhóm chứng. Nồng độ FSH huyết thanh trước khi tiêm hCG của nhóm noãn nâu cao hơn đáng kể (p=0,02). Đồng thời, nhóm còn quan sát thấy hầu hết các tế bào hạt của noãn nâu rời rạc nhưng sẫm màu và kết cụm, chứng tỏ tế bào hạt có thể vẫn chưa trưởng thành. ZP được cấu thành từ các glycoprotein ZP1, ZP2, ZP3, có nguồn gốc từ noãn và tế bào hạt tiết ra. Tuy nhiên, sự tổng hợp và tiết bất thường protein ZP là từ các tế bào hạt (Peluso C, 2015). Giả thuyết nhóm tác giả đặt ra để giải thích là có thể liều FSH ngoại sinh cao liên tục xâm nhập vào dịch nang, dẫn đến bất thường sự tổng hợp và tiết protein cấu thành ZP từ các tế bào hạt. Cuối cùng, điều này dẫn đến các tế bào hạt chưa trưởng thành, với biểu hiện rời rạc quá mức hoặc kết cụm.
Như vậy, nồng độ FSH huyết thanh trong chu kỳ IVF-ET cao tương quan với sự hình thành noãn nâu- ZP nâu dày và ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi, dẫn đến tỉ lệ thai giảm. Ngược lại, không có mối tương quan giữa noãn nâu với các yếu tố khác như độ tuổi, BMI, thời gian và nguyên nhân vô sinh. Vì vậy, giới hạn liều FSH trong kích thích buồng trứng là điều quan trọng để tạo các noãn chất lượng tốt.
Trần Hà Lan Thanh – Chuyên viên phôi học IVFMD Phú Nhuận
Nguồn: High Serum FSH is Associated with Brown Oocyte Formation and a Lower Pregnacy Rate in Human IVF Parctice, Cell Physiol Biochem 2016;39:677-684.
Từ khóa: Nồng độ FSH huyết thanh cao liên quan đến sự hình thành noãn nâu và tỉ lệ thai thấp trong TTTON
Các tin khác cùng chuyên mục:
Bất thường hình thái liên quan đến biến đổi khung xương tế bào trong noãn người - Ngày đăng: 13-07-2018
Hướng dẫn lâm sàng quốc tế dựa trên bằng chứng về chẩn đoán và điều trị hội chứng buồng trứng đa nang 2018 - Ngày đăng: 12-07-2018
Bổ sung các chế phẩm chống oxy hóa không cải thiện chất lượng tinh trùng ở nam giới hiếm muộn - Ngày đăng: 06-07-2018
So sánh Carbetocin bền vững nhiệt và Oxytocin trong dự phòng băng huyết sau sinh ngả âm đạo - Ngày đăng: 03-07-2018
So sánh giữa bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) và thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) ở nhóm bệnh nhân đáp ứng kém: Một tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 02-07-2018
Progesterone đặt âm đạo và khâu cổ tử cung có hiệu quả tương đương trong dự phòng sinh non ở thai phụ đơn thai, tiền sử sinh non và chiều dài kênh cổ tử cung ngắn – cập nhật phân tích gộp so sánh gián tiếp - Ngày đăng: 02-07-2018
MicroRNAs trong môi trường nuôi cấy phôi nang được tiết ra từ các tế bào lá nuôi và có thể giúp đánh giá tiềm lực làm tổ của phôi người - Ngày đăng: 02-07-2018
Sử dụng kháng viêm non-steroid khi có thai và nguy cơ sẩy thai - Ngày đăng: 29-06-2018
Ảnh hưởng của histon DNA tinh trùng lên sự phát triển phôi - Ngày đăng: 30-06-2018
Aspirin liều thấp trong thai kỳ - Ngày đăng: 29-06-2018
Kết cục chu sinh và 2 năm sau sinh ở thai kỳ có vỡ ối non từ 22-25 tuần: nghiên cứu dựa trên dân số quốc gia - Ngày đăng: 26-06-2018
Phân độ tăng huyết áp mới giúp phát hiện thêm đối tượng nguy cơ tiền sản giật - Ngày đăng: 25-06-2018
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK