Tin chuyên ngành
on Monday 13-10-2014 3:35pm
Danh mục: Nam khoa
Lê Vũ Tân*, Dương Quang Huy *, Nguyễn Hồ Vĩnh Phước*, Phạm Văn Hảo*, Đặng Quang Tuấn*, Mai Bá Tiến Dũng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề và mục tiêu: Gãy dương vật là một cấp cứu niệu khoa thường gặp ở Việt Nam. Hiện bệnh viện Bình Dân tiếp nhận 3 – 5 trường hợp cấp cứu gãy dương vật trong một tháng. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm khảo sát các đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân gãy dương vật tại bệnh viện Bình Dân.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả các trường hợp bệnh tại bệnh viện Bình Dân trong thời gian từ 03/2012 - 05/2014. Chúng tôi đánh giá các đặc điểm về yếu tố dịch tễ, chẩn đoán và điều trị phẫu thuật.
Kết quả: Có 44 trường hợp tuổi trung bình là 38 ± 1,3 tuổi (21 đến 84) nhập viện trong nghiên cứu của chúng tôi. 30 trường hợp (68%) có thói quen thủ dâm. 26 trường hợp (59%) nguyên nhân do tự bẻ và 16 (36,4%) do quan hệ. 2 trường hợp còn lại do nằm đè lên dương vật khi cương. Bệnh nhân biểu hiện triệu chứng sưng, đau và nghe tiếng gãy. Chẩn đoán dựa vào việc khai thác kỹ bệnh sử và khám lâm sàng. 43 trường hợp được điều trị phẫu thuật trong đó 1 trường hợp không ghi nhận chỗ gãy, 1 trường hợp có kèm tổn thương niệu đạo, còn lại 31 trường hợp (72,1%) tổn thương bên phải và 10 (23,3%) bên trái. Chiều dài trung bình vết rách là 1,37 ± 0,7 cm.
Kết luận: Tự bẻ là nguyên nhân hay gặp nhất của gãy dương vật trong nghiên cứu của chúng tôi. Thương tổn thường gặp ở bên phải.
Từ khóa: Gãy dương vật, bao trắng, phẫu thuật.
ABSTRACT INVESTIGATE THE CHARACTERISTICS OF PENILE FRACTURE AT BINH DAN HOSPITAL
Le Vu Tan, Duong Quang Huy, Nguyen Ho Vinh Phuoc, Pham Van Hao, Dang Quang Tuan, Mai Ba Tien Dung
Introduction and objective: Penile fracture is the common urological trauma seen in Viet Nam. There have been 3 – 5 cases of penile fracture admitted to the Emergency Department of Binh Dan hospital in a month. The main objective of this study is to evaluate the clinical characteristics of the patients diagnosed with penile fracture in Binh Dan hospital.
Patients and methods: This is a case series at Binh Dan hospital from 03/2012 to 05/2014. We described the characteristics of etiology, diagnosis and its surgical treatment.
Results: 44 patients were admitted in our study, the average age was 38 ± 1,3 years (21 to 84). 30 cases (68%) had the mastubation habitude. 26 cases (59%) had episodes related to manual habitual trauma and 16 (36,4%) to intercourse. The remaining 2 patients had a direct press to an erect penis while rolling in the bed. Patients presented swelling, pain and a cracking sound in the penis. The diagnosis was made using history and physical examination in the patients. Surgical repair was performed in 43 cases, in which 1 case without fracture and 1 case with concomitant urethral disruption. The remaining 31 cases (72,1%) had the fracture on the right side and 10 (23,3%) on the left side. The average length of the fracture was 1,37 ± 0,7 cm.
Conclusion: Habitual manual trauma was the most common cause of penile fracture in our study. The fracture was often on the right side.
Key words: Penile fracture, tunica albuginea, surgery.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gãy dương vật là một cấp cứu niệu khoa thường gặp ở Việt Nam. Hiện bệnh viện Bình Dân tiếp nhận 3 – 5 trường hợp cấp cứu gãy dương vật trong 1 tháng. Trên thế giới, trường hợp gãy dương vật đầu tiên được mô tả trong y văn vào năm 1924(4) và đã có nhiều nghiên cứu báo cáo. Tại Việt Nam, Đào Quang Oánh và Ngô Gia Hy đã báo cáo 19 trường hợp gãy dương vật(6). Hiện nay trong các kíp trực cấp cứu tại bệnh viện Bình Dân chúng tôi vẫn thường gặp các trường hợp gãy dương vật và số lượng ngày càng tăng. Thậm chí những trường hợp hiếm như vỡ bao trắng thể hang đi kèm với tổn thương rách niệu đạo cũng có thể gặp trong các kíp trực. Tuy nhiên, tại Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu khảo sát các đặc điểm lâm sàng cũng như thương tổn trên bệnh nhân gãy dương vật. Để có cái nhìn sâu hơn về vấn đề này, chúng tôi quyết định tiến hành đề tài “Khảo sát đặc điểm gãy dương vật tại bệnh viện Bình Dân”
Mục tiêu chính của nghiên cứu này nhằm khảo sát các đặc điểm lâm sàng và mô tả thương tổn khi phẫu thuật trên bệnh nhân gãy dương vật tại bệnh viện Bình Dân.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu:
Bệnh nhân gãy dương vật tại bệnh viện Bình Dân từ 03/2012 đến 05/2014.
Tiêu chuẩn chọn bệnh:
Tất cả những bệnh nhân chẩn đoán gãy dương vật và điều trị tại bệnh viện Bình Dân trong thời gian nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ:
Những bệnh nhân không hợp tác
Những bệnh nhân trốn viện
Những bệnh nhân không tuân thủ điều trị
Thiết kế nghiên cứu:
Mô tả các trường hợp bệnh tại bệnh viện Bình Dân trong thời gian từ 03/2012 - 05/2014.
Cách thức thực hiện:
Bệnh nhân được chẩn đoán gãy dương vật tại khoa cấp cứu bệnh viện Bình Dân thực hiện đủ các xét nghiệm tiền phẫu và siêu âm doppler bẹn, bìu, dương vật sau đó được tiến hành phẫu thuật. Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh được thu thập các thông tin dựa vào bảng câu hỏi soạn sẵn: hành chánh, bệnh sử, lâm sàng và cận lâm sàng, kết quả phẫu thuật, thời gian nằm viện.
KẾT QUẢ
Trong thời gian nghiên cứu từ 03/2012 đến 05/2014 chúng tôi ghi nhận có 44 trường hợp nhập vào khoa cấp cứu bệnh viện Bình Dân.
Đặc điểm chung của mẫu:
Tuổi: Tuổi nhỏ nhất là 21 tuổi và tuổi lớn nhất là 84 tuổi, trung bình 38 tuổi. Phân bố tuổi là 38 ± 1,3 tuổi.
Nghề nghiệp: lao động chân tay chiếm đa số với 79,5% (35 trường hợp), 21,5% (9 trường hợp) lao động trí óc.
Tỉ lệ thủ dâm:
Trong 44 trường hợp tỉ lệ thủ dâm chiếm 68% (30), 32% (14 trường hợp) không có thói quen thủ dâm
Thói quen bẻ dương vật:
27 trường hợp có thói quen dùng tay bẻ dương vật chiếm 61,4%, 38,4% (17 trường hợp) không có thói quen bẻ dương vật.
Lý do nhập viện:
Chúng tôi ghi nhận các lý do nhập viện của bệnh nhân bao gồm tự bẻ dương vật, quan hệ và nằm đè lên dương vật khi cương
Bảng 1: Lý do nhập viện
Lý do nhập viện | Số ca | Tỉ lệ % |
Tự bẻ dương vật | 26 | 59 |
Quan hệ | 16 | 36,4 |
Nằm đè khi dương vật cương | 2 | 4,6 |
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng:
Các đặc điểm lâm sàng chúng tôi ghi nhận trên bệnh nhân bao gồm: nghe âm thanh gãy, tình trạng cương của dương vật sau gãy, đánh giá mảng máu tụ và khám điểm đau chói. 44 trường hợp đều ghi nhận hình ảnh gãy trên siêu âm.
Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng
Lâm sàng | Số trường hợp | Tỉ lệ % | |
Nghe âm thanh gãy | (+) | 28 | 63,6 |
(-) | 16 | 36,4 | |
Cương sau gãy | (+) | 4 | 9,1 |
(-) | 40 | 90,9 | |
Mảng máu tụ | Dương vật | 44 | 100 |
Bìu | 8 | 18,2 | |
Điểm đau chói | (+) | 31 | 70,5 |
(-) | 13 | 29,5 |
Đánh giá kết quả khi phẫu thuật:
Trong 44 trường hợp chúng tôi điều trị nội khoa 1 trường hợp, 43 trường hợp phẫu thuật có 1 trường hợp chúng tôi không tìm thấy chỗ gãy, các trường hợp còn lại ghi nhận kết quả tổn thương theo bảng sau
Bảng 3: tổn thương ghi nhận khi phẫu thuật
Tổn thương | Số trường hợp | Tỉ lệ % |
Thể hang phải | 31 | 72,1 |
Thể hang trái | 10 | 23,3 |
Thể hang phải và niệu đạo | 1 | 2,3 |
Không ghi nhận | 1 | 2,3 |
Tổng cộng | 43 | 100 |
Bảng 4: vị trí tổn thương khi phẫu thuật
Tổn thương | Số trường hợp | Tỉ lệ % |
1/3 sau | 31 | 73,8 |
1/3 giữa | 10 | 23,8 |
1/3 trước | 1 | 2,4 |
Tổng cộng | 42 | 100 |
Về thời gian phẫu thuật trung bình là 34,5 ± 13,6 phút, trong đó trường hợp phẫu thuật thời gian nhanh nhất là 15 phút và chậm nhất là 70 phút.
Sau phẫu thuật chúng tôi đánh giá thời gian nằm viện trung bình của bệnh nhân là 3,18 ± 1,7 ngày. Trường hợp nằm viện ngắn nhất là 2 ngày và dài nhất là 11 ngày.
BÀN LUẬN
Gãy dương vật do chấn thương làm rách bao trắng bao quanh thể hang, thường xảy ra lúc dương vật cương cứng cao độ. Lúc này máu trong thể hang chảy ra lan tràn dưới mạc dương vật. Trường hợp rách cả hai lớp mạc nông và mạc sâu dương vật gây tụ máu dưới da bìu, tầng sinh môn, vùng bẹn và vùng trên xương mu (4,15).
Thường xảy ra lúc dương vật cương cứng cao độ: các lớp mạc bao quanh thể hang bị giãn nở căng ra nên rất mỏng và yếu, chỉ cần một động tác nhẹ làm gập góc dương vật hoặc va chạm vào dương vật cũng đủ làm cho các lớp mạc quanh thể hang bị vỡ gây thoát máu từ thể hang ra ngoài.
Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu:
Bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi có độ tuổi từ 21 đến 84 tuổi, trung bình là 38 ± 1,3 tuổi. Theo tác giả Mohammad khảo sát 86 trường hợp gãy dương vật từ 2003 – 2012 tại Iran ghi nhận lứa tuổi trung bình là 36,3 tuổi(16). Abdulab báo cáo 107 trường hợp từ 1990 – 2009 tại Thổ Nhĩ Kỳ có độ tuổi trung bình là 28(1). Độ tuổi trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi có sự tương đồng với các tác giả trên thế giới.
Chúng tôi khảo sát nghề nghiệp của bệnh nhân ghi nhận lao động chân tay chiếm đa số với 79,5% (35 trường hợp), 21,5% (9 trường hợp) lao động trí óc. Chúng tôi đưa ra nhận định có thể gãy dương vật có mối liên quan đến trình độ hiểu biết của bệnh nhân. Chúng tôi không thấy các tác giả khác trên thế giới khảo sát về nghề nghiệp của bệnh nhân gãy dương vật.
Thủ dâm và thói quen bẻ dương vật:
Trong 44 trường hợp chúng tôi ghi nhận tỉ lệ thủ dâm chiếm 68% (30) và 27 trường hợp có thói quen dùng tay bẻ dương vật chiếm 61,4%. Chúng tôi không thấy ghi nhận thói quen này trong các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới.
Lý do nhập viện:
Trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận gãy do tự bẻ dương vật chiếm đa số 59% (26 trường hợp), theo sau đó là do quan hệ 36,4% (16 trường hợp) và 2 trường hợp nằm đè khi dương vật cương chiếm 4,6%. Trong báo cáo của Đào Quang Oánh và Ngô Gia Hy trong thời gian 6 năm từ 1980 - 1985 tại bệnh viện Bình Dân(6) có 19 trường hợp gãy dương vật do các nguyên nhân: đa phần tự bẻ (9), 4 trường hợp người khác bẻ, 2 trường hợp nằm đè lên khi ngủ, 2 trường hợp do đá banh, 1 trường hợp bị đánh và 1 trường hợp do giao hợp.
Leandro K.(13) tiến hành nghiên cứu từ 1997 – 2009 trên 150 trường hợp gãy dương vật tại Brazil ghi nhận nguyên nhân chủ yếu do giao hợp (93,3%) và theo sau là thủ dâm (6,7%). Housseiny E. (9) nghiên cứu trên 155 trường hợp gãy dương vật từ 1986 – 2008 tại Ai Cập và đưa ra nguyên nhân do giao hợp chiếm đa số (50,3%) tiếp theo đó là do thủ dâm và do lăn trên giường khi dương vật đang cương. Abdullab(1) cho thấy đa phần nguyên nhân gãy dương vật là do giao hợp (46%). Mohammad báo cáo nguyên nhân gãy dương vật do tự bẻ chiếm 56%, theo sau là do quan hệ chiếm 30,2%(16).
Gãy dương vật chủ yếu xảy ra khi giao hợp do dương vật trượt ra khỏi âm đạo và va vào đáy chậu hoặc xương mu(3,15). Một số nguyên nhân hay gặp như: thói quen bẻ bằng tay dương vật do thủ dâm và do lăn trên giường khi dương vật đang cương(3,15,16,22). Ở các nước phương Tây đa phần nguyên nhân là do quan hệ. Ở nước ta thói quen bẻ bằng tay thường gặp ở những bệnh nhân ngủ chung phòng với bạn hay gia đình. Tình trạng dương vật cương làm bệnh nhân không thoải mái, họ bẻ dương vật vào buổi sáng sớm để dương vật xìu. Một số bệnh nhân khác có thói quen bẻ dương vật để nghe tiếng “cốc” như bẻ khớp ngón tay(18).
Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng:
Các đặc điểm lâm sàng chúng tôi ghi nhận trên bệnh nhân bao gồm: nghe âm thanh gãy, tình trạng cương của dương vật sau gãy, đánh giá mảng máu tụ và khám điểm đau chói.
63,6% các trường hợp mô tả nghe âm thanh khi gãy và 90,9% dương vật xìu ngay sau gãy. Nghe âm thanh khi gãy và biến dạng dương vật sau gãy là hai triệu chứng rất thường gặp trên bệnh nhân. Housseiny mô tả tỉ lệ nghe âm thanh khi gãy là 47,7% và 80% dương vật xìu ngay sau gãy(9).
Tụ máu khu trú tại dương vật nếu mạc Buck còn nguyên vẹn và khám lâm sàng có thể sờ thấy khối máu tụ và ấn bệnh nhân sẽ đau. Trường hợp mạc Buck bị tổn thương, tụ máu có thể lan xuống khắp cả bìu, tầng sinh môn, vùng bẹn, vùng trên xương mu(3,15,22). Tất cả các trường hợp trong nghiên cứu của chúng tôi đều có mảng máu tụ trên dương vật, 8 trường hợp (18,2%) ghi nhận có mảng máu tụ ở bìu và 77,3% các trường hợp chúng tôi khám thấy điểm đau chói trên bệnh nhân. Kết quả của chúng tôi cũng tương đồng với các tác giả trên thế giới. Tỉ lệ khám thấy điểm đau chói trong nghiên cứu của Mohammad là 83,7%(16).
Đánh giá kết quả khi phẫu thuật:
Điều trị bảo tồn gãy dương vật hiện nay không được khuyến cáo do để lại nhiều biến chứng(3,10,15,18,22). Can thiệp phẫu thuật khâu bao trắng thể hang sớm trên bệnh nhân gãy dương vật được đa số các tác giả đồng thuận(3,10,15,18,22). Phẫu thuật sớm giúp thời gian hồi phục nhanh hơn, giảm thời gian nằm viện và hạn chế các biến chứng về lâu dài cho bệnh nhân. Mục tiêu của điều trị phẫu thuật là lấy hết khối máu tụ và khâu lại bao trắng thể hang vỡ.
43 trường hợp phẫu thuật có 1 trường hợp chúng tôi không tìm thấy chỗ gãy, các trường hợp còn lại ghi nhận tổn thương thể hang bên phải chiếm đa số 72,1%, tổn thương bên trái ít hơn với 23,3%. Mohammad báo cáo 48 trường hợp (55,8%) tổn thương bên phải và 32 trường hợp (37,2%) bên trái(16). Trong nghiên cứu hồi cứu của Rabii E.(20) ghi nhận 300 trường hợp từ 1975 – 2005 tại Tunisia cho thấy đa phần gãy bên phải (60%), bên trái chiếm 39,6% và 0,34% gãy cả 2 bên. Các tác giả trên thế giới đều ghi nhận tổn thương bên phải nhiều hơn bên trái và cũng chưa thể lý giải được điều này.
Tổn thương niệu đạo có thể đi kèm ở các trường hợp gãy dương vật. Đa phần là đứt bán phần niệu đạo kèm gãy dương vật, đứt hoàn toàn niệu đạo rất hiếm(15). Hầu hết các trường hợp tổn thương niệu đạo có tiểu máu đại thể, máu rỉ ra ở miệng niệu đạo hoặc có triệu chứng bí tiểu(4). Trong nghiên cứu của chúng tôi có 1 trường hợp (2,3%) xác định có tổn thương đứt niệu đạo bán phần kèm theo vỡ thể hang bên phải. Bệnh nhân được nối niệu đạo tận – tận. Tác giả Housseiny E.(9) ghi nhận 14 trường hợp (9%) có tổn thương niệu đạo kèm theo. Mohammad(16) báo cáo có 2 trường hợp (2,32%) có tổn thương niệu đạo kèm theo.
Trong 42 trường hợp phẫu thuật thấy tổn thương ở thể hang chúng tôi ghi nhận vị trí thường ở 1/3 sau chiếm 73,8% (31 trường hợp), 10 trường hợp (23,3%) tổn thương ở 1/3 giữa và chỉ 1 trường hợp (2,3%) ở 1/3 trước. Mohammad(16) nhận thấy 82 trường hợp (95,35%) gãy ở 1/3 giữa và 1/3 sau. Housseiny E.(9) báo cáo có 76 trường hợp (49%) vị trí rách ở 1/3 sau và 58 (37,4%) ở 1/3 giữa. Nhìn chung vị trí tổn thương thường xảy ra trên 1/3 sau và giữa của dương vật, tỉ lệ tổn thương ở 1/3 trước rất ít.
Chúng tôi ghi nhận chiều dài vết rách thể hang trung bình là 1,37 ± 0,7 cm, trong đó vết rách ngắn nhất là 0,5cm và dài nhất là 4 cm. Trong nghiên cứu của Abdullab(1) trên 190 trường hợp gãy dương vật cho thấy thương tổn vỡ bao trắng từ 0,5 – 4 cm. Trong đó vết rách từ 1 – 2 cm chiếm đa số (60,4%), kế đến là vết rách 0,5 – 1 cm (35,7%). Mohammad(16) báo cáo chiều dài vết rách từ 1 – 3 cm.
Về thời gian phẫu thuật trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 34,5 ± 13,6 phút, trong đó trường hợp phẫu thuật thời gian nhanh nhất là 15 phút và chậm nhất là 70 phút. Chúng tôi không thấy ghi nhận thời gian phẫu thuật trong nghiên cứu của các tác giả trên thế giới.
Sau phẫu thuật chúng tôi đánh giá thời gian nằm viện trung bình của bệnh nhân là 2,18 ± 1,7 ngày. Trường hợp nằm viện ngắn nhất là 2 ngày và dài nhất là 11 ngày. Thời gian nằm viện tương đồng với kết quả của Abdullab(1) là 2,2 ngày.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát 44 trường hợp gãy dương vật trong thời gian nghiên cứu chúng tôi ghi nhận độ tuổi trung bình là 38 ± 1,3 tuổi (21 đến 84). Các nguyên nhân gãy dương vật bao gồm tự bẻ 59% (26 trường hợp), 36,4 (16 trường hợp) do quan hệ và 4,6% (2 trường hợp) do nằm đè lên dương vật khi cương. Bệnh nhân biểu hiện triệu chứng sưng, đau và nghe tiếng gãy. Chẩn đoán dựa vào việc khai thác kỹ bệnh sử và khám lâm sàng. 43 trường hợp được điều trị phẫu thuật trong đó 1 trường hợp không ghi nhận chỗ gãy, 1 trường hợp có kèm tổn thương niệu đạo, còn lại 31 trường hợp (72,1%) tổn thương bên phải và 10 (23,3%) bên trái. Vị trí vết rách thường nằm ở 1/3 sau và 1/3 giữa dương vật. Chiều dài trung bình vết rách là 1,37 ± 0,7 cm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abdullah G. et al. (2011), “The diagnosis and treatment of penile fracture: our 19 - year experience”, Turkish Journal of Trauma & Emergency Surgery, vol. 17, pp. 57 – 60.
2. Ahmed E. (2010), “False Penile Fracture: Value of different diagnostic approaches and long-term outcome of conservative and surgical management”, Urology, vol. 75, pp. 1353 – 1357.
3. Allen D. (1998), “Inguinal scrotal incision for penile fracture”, American Urological Association, Vol. 159, pp. 182-184.
4. Allen F.M., Thomas A.R. (2007), “Injuries of the External Genitalia”, Campbell ‘s urology, W.B. saunders Company, 9th edi., chapter 83.
5. Benjamin I.C., Graham S., James D.B. (2012), “Anatomy of the Lower Urinary Tract and Male Genitalia - Penis”, Campbell’s urology, W.B. saunders Company, 10th edi., chapter 2, pp. 86 – 89.
6. Đào Quang Oánh, Ngô Gia Hy (1986), “Gãy dương vật”, Sinh hoạt Khoa học kỹ thuật bệnh viện Bình Dân, số 5, trang 74 - 76.
7. Darves A. (2013), “Proximal Corpus Cavernosum Tear Presenting as Scrotal Hematoma”, Case Reports in Urology, vol. 2013, pp 1 – 2.
8. Gregory J. (2013), “Sexual function outcomes following fracture of the penis”, Canadian Urological Association Journal, vol. 7, pp. 7 – 8.
9. Housseiny E. et al. (2010)), “Penile Fracture: Long-term Outcome of Immediate Surgical Intervention”, Urology, vol. 75, pp. 1
10. Hunter W. (2006), “Penile and Genital Injuries”, Urologic Clinic of North America, vol. 33, pp. 117 – 126.
11. Katie S. (2012), “Penile Fracture and Magnetic Resonance Imaging”, British Journal of Urology, vol. 38, pp. 287 – 288.
12. Klemen J. (2007), “A case of penile fracture with complete urethral disruption during sexual intercourse”, Journal of Medical Case Reports, pp. 1 – 3.
13. Leandro K. (2010), “Penile Fracture: Diagnosis,Treatment and Outcomes of 150 Patients”, Reconstructive Urology, vol. 76, pp. 6.
14. Manish G. (2013), “Penile fracture with urethral injury: evaluation by contrast imaging”, British Medical Journal Case Report, vol. 10, pp. 1136.
15. McAninch J.W. (2004), “Penile trauma”, Glenn ‘s urologic surgery, Lippincott Williams & Wilkins, 6th edi., chapter 73.
16. Mohammad K. (2013), “Evaluation of epidemiology, concomitant urethral disruption and seasonal variation of penile fracture: A report of 86 cases”, Canada Urology Association Journal, vol. 7, pp. 9 – 10.
17. Nguyễn Quang Quyền (2001), “Cơ quan sinh dục nam”, Bài giảng giải phẫu học, NXB Y Học, tập 2, tr. 245 – 250.
18. Nguyễn Thành Như (2013), “Gãy dương vật”, Nam khoa lâm sàng, NXB Tổng Hợp, tr. 352 – 359.
19. Phạm Đăng Diệu (2003), “Cơ quan sinh dục nam”, Giải phẫu ngực – bụng, NXB Y Học, tr. 388 – 398.
20. Rabii E. et al. (2008), “Fracture of the Penis: Management and Long-Term Results of Surgical Treatment. Experience in 300 Cases”, The Journal of trauma, vol. 64.
21. Raman U. (2013), “Ultrasound of acute penile fracture”, The journal of urology, vol. 190, pp. 2253 – 2254.
22. Summerton D.J. et al (2013),“Guidelines on urological trauma”, European association of Urology guidelines, Pasteur RSHS, pp. 68 – 69.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối tương quan giữa ros tinh dịch, sự phân mảnh dna tinh trùng và tỉ lệ hình dạng tinh trùng bình thường trên các trường hợp thực hiện tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (icsi) - Ngày đăng: 09-04-2014
Kết quả điều trị các trường hợp ẩn tinh tại IVFAS, Bệnh viện An Sinh - Ngày đăng: 13-02-2014
Lựa chọn mới trong điều trị vô tinh - Ngày đăng: 13-10-2013
Nghiên cứu tác dụng kích thích sinh tinh của thuốc Phylamin y trên thực nghiệm và lâm sàng - Ngày đăng: 16-09-2013
Kỹ thuật Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn: 20 năm ra đời và phát triển - Ngày đăng: 29-07-2013
Phân tích kết quả trên 4.060 tinh dịch đồ theo tiêu chuẩn WHO 2010 của các cặp vợ chồng khám hiếm muộn - Ngày đăng: 28-06-2013
Lựa chọn tinh trùng theo hình dạng – kỹ thuật IMSI - Ngày đăng: 17-04-2013
Khảo sát hiệu quả Antioxidant trên bệnh nhân vô sinh nam tại Việt Nam - Ngày đăng: 28-03-2013
Kết qua ICSI với tinh trùng thu nhận từ phẫu thuật tươi và đông lạnh tại Trung tâm IVFAS - Ngày đăng: 13-05-2013
Hiệu quả kỹ thuật chọn lọc tinh trùng dựa trên hình dạng để tiềm vào bào tương noãn (IMSI) cải tiến tại IVFAS - Ngày đăng: 18-03-2013
Nghiên cứu mối liên quan giữa đặc điểm giải phẫu tinh hoàn với các thông số tinh dịch đồ ở bệnh nhân vô sinh nam - Ngày đăng: 20-02-2013
Oesa tại khoa hiếm muộn Bệnh viện Hùng Vương - Ngày đăng: 02-01-2013
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK