Siêu âm ngã âm đạo (Transvaginal ultrasound-TVU) là một phương tiện hữu ích giúp chúng ta đánh giá sự thay đổi của cổ tử cung (CTC) trong suốt thai kỳ. Qua các nghiên cứu, người ta nhận thấy khi chiều dài kênh CTC ngắn trong tam cá nguyệt (TCN) 2 thì nguy cơ sinh non tự phát tăng. Trước 14 tuần tuổi thai, chiều dài kênh CTC ít có giá trị lâm sàng. Tuy nhiên trong một vài trường hợp đặc biệt như có tiền căn sinh non, tiền căn thủ thuật trên CTC (sinh thiết, khoét chóp ...), CTC ngắn ở thời điểm 10-13 tuần sẽ kết hợp với nguy cơ sanh non tự phát cao. Thời điểm thích hợp để đo chiều dài kênh CTC dựa trên tiền căn sản khoa của thai phụ. Đối với những thai phụ có tiền căn sinh non nên được thực hiện lúc 14-16 tuần, ngược lại nếu không có tiền căn sinh non thì thời điểm phù hợp là 18-23 tuần 6 ngày. Chiều dài kênh CTC thường ổn định ở thời điểm 14-28 tuần và ngắn dần sau 28-32 tuần. Thời điểm thai từ 14-28 tuần, CTC có dạng hình chuông và chiều dài ở :
+ Bách phân vị thứ 2 là 15 mm
+ Bách phân vị thứ 5 là 20 mm
+ Bách phân vị thứ 10 là 25 mm
+ Bách phân vị thứ 50 là 35 mm
+ Bách phân vị thứ 90 là 45 mm
Chiều dài kênh CTC trung bình thời điểm thai 22 tuần là 40 mm, từ 22-32 tuần là 35 mm và giảm xuống còn 30 mm sau 32 tuần. Các yếu tố như số lần sanh, chủng tộc, chiều cao của thai phụ ít có ảnh hưởng đến chiều dài kênh CTC. Định nghĩa CTC ngắn đã có nhiều thay đổi theo thời gian. Trong nhiều nghiên cứu, người ta nhận thấy chiều dài kênh CTC nhỏ hơn bách phân vị thứ 10 (< 25 mm) kết hợp với việc tăng nguy cơ sanh non tự phát. Những nghiên cứu về chiều dài kênh CTC trong thai kỳ bình thường và thai kỳ phức tạp đã chỉ ra rằng: hầu hết các trường hợp, CTC ngắn < 25 mm, chuyển dạ sẽ diễn ra trong vòng 8 tuần sau đó. Nguy cơ sanh non tự phát là cao nhất khi CTC ngắn ở thời điểm thai 16-18 tuần. Sau 30 tuần, chiều dài kênh CTC không còn hữu ích trong dự đoán sanh non vì theo sinh lý, CTC sẽ ngắn dần vào cuối thai kỳ. CTC ngắn thường kết hợp với hở lỗ trong CTC. Tuy nhiên hở lỗ trong CTC đơn thuần không phải là một yếu tố nguy cơ độc lập trong dự đoán sanh non. Khi lỗ trong CTC hở với chiều dài kênh CTC còn lại bình thường, thường là do sự co thắt của đoạn dưới tử cung. Do đó, dấu hiệu này ít có ý nghĩa trên lâm sàng. Những yếu tố khác như mật độ mô CTC, trục CTC so với thân thì không có giá trị trong dự đoán sanh non so với CTC ngắn đơn thuần.
Cho đến thời điểm hiện nay (2013), dựa vào các tư liệu trên Cochrane, vẫn chưa có đủ bằng chứng để khuyến cáo đo CTC thường quy trong thai kỳ do những nghiên cứu trước đây không có chiến lược rõ ràng trong việc quản lý thai phụ dựa trên chiều dài kênh CTC và do dân số nghiên cứu không đồng nhất (đơn thai, song thai, có triệu chứng sanh non, không có triệu chứng...). Giá trị chiều dài kênh CTC ngắn dùng để chẩn đoán và điều trị phòng ngừa sanh non thay đổi tuỳ theo thai phụ có tiền căn sanh non hay không. Dựa vào những bằng chứng hiện tại, người ta chẩn đoán CTC ngắn khi chiều dài kênh CTC < 20 mm ở thời điểm thai 16-28 tuần đối với những thai phụ không có tiền căn sanh non và < 25 mm ở những thai phụ có tiền căn sanh non. Trường hợp những thai phụ không có tiền căn sanh non và chiều dài kênh CTC < 20 mm, progesterone đặt âm đạo làm giảm nguy cơ sanh non. Đối với thai phụ có tiền căn sanh non nên được điều trị bằng 17-alpha-hydroxyprogesterone caproate đồng thời kết hợp với khâu CTC khi chiều dài kênh CTC < 25 mm (theo hướng dẫn của The society for Maternal- Fetal Medicine).
BS Phạm Thị Phương Anh
Tài liệu tham khảo:
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...