Một nghiên cứu hồi cứu số liệu tử vong mẹ trong thời gian gần 10 năm tại thành phố New York (Hoa kỳ), dựa trên số liệu thống kê từ các bệnh viện, cho thấy tỉ lệ tử vong mẹ là 132 trường hợp trên 1.084.862 ca sinh đơn thai. Các yếu tố nguy cơ cao của tử vong mẹ được ghi nhận là: tăng áp phổi, tiền sản giật / sản giật, cao huyết áp mạn, nhiễm HIV, tiểu đường, béo phì.... Nghiên cứu vừa được Katherine Campbell và cộng sự công bố trên tạp chí Obstetrics and Gynecology, số tháng 10/2013.
Nghiên cứu được một nhóm nhà khoa học thuộc các trường đại học y khoa lớn ở New York phối hợp thực hiện. Nhóm nghiên cứu thống kê số liệu sinh đơn thai ở thành phố New York từ năm 1995 đến 2003. Tỉ lệ tử vong mẹ được thống kê là khoảng 12.2/100.000. Các yếu tố nguy cơ cao của tử vong mẹ xếp từ cao xuống thấp, kèm với nguy cơ (OR) được hiệu chỉnh là: tăng áp phổi (OR: 65,1), tiền sản giật / sản giật (OR: 8,1), cao huyết áp mạn (OR: 7,7), nhiễm HIV (OR: 7,7), tiểu đường trước khi có thai (OR: 3,3), béo phì (OR: 2,9).
Trong các yếu tố trên nguyên nhân gây tử vong cao nhất là tiền sản giật / sản giật (42/132) và nhóm cao huyết áp mạn và tăng áp phổi cũng chiếm tỉ lệ cao (26/132). Như vậy, nguyên nhân gây tử vong mẹ do các rối loạn liên quan đến cao huyết áp và thai kỳ chiếm tỉ lệ cao nhất, khoảng 50% nguyên nhân tử vong mẹ.
Đây cũng là một cảnh báo cho việc theo dõi trước và sau khi sinh tại các thành phố lớn ở Việt Nam. Các bất thường trong thai kỳ liên quan đến cao huyết áp như tiền sản giật, sản giật và cao huyết áp mạn trước khi mang thai cần được phát hiện sớm, theo dõi sát và xử trí tích cực trước, trong và sau khi sinh nhằm giảm thiểu tỉ lệ tai biến và tử vong mẹ.
BS. Hồ Mạnh Tường
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...