Tin tức
on Friday 24-12-2021 10:22pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Võ Như Thanh Trúc – IVFAS
Giới thiệu
Lạc nội mạc tử cung xuất hiện với tần suất khoảng 6 – 10% trên những phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và có nguy cơ gây ra tình trạng vô sinh ở những bệnh nhân này. Một vài báo cáo cho thấy khoảng 35 – 50% những phụ nữ vô sinh có tình trạng lạc nội mạc tử cung và khoảng 30 – 50% có tình trạng lạc nội mạc tử cung được chẩn đoán vô sinh. Cơ chế sinh học mô tả mối tương quan giữa vô sinh và tình trạng lạc nội mạc tử cung hiện nay vẫn chưa được làm rõ. Tuy nhiên, tình trạng lạc nội mạc tử cung tại buồng trứng (endometrioma) được cho rằng gây ra các tác động bất lợi đến hoạt động sinh lý của buồng trứng. Tỉ lệ các nang noãn rơi vào tình trạng trơ hoá (atresia) và thoái hoá sớm ở vỏ buồng trứng được chứng minh là có sự tăng cao đáng kể ở những bệnh nhân có tình trạng lạc nội mạc tử cung tại buồng trứng. Các nang noãn trơ hoá trước khi chúng đến được giai đoạn nang noãn tiền hốc có thể liên quan đến sự khởi phát quá trình chết theo chương trình của tế bào (apoptosis) của các tế bào hạt (granulosa cell). Mặt khác, các tế bào hạt từ những bệnh nhân lạc nội mạc tử cung cũng cho thấy có mức độ apoptosis tăng cao đáng kể.
Trong số các yếu tố gây bệnh có liên quan đến tình trạng lạc nội mạc tử cung, nhiều ý kiến cho rằng các stress oxy hoá có thể đóng góp đáng kể vào quá trình cảm ứng apoptosis ở những tế bào hạt, mặc dù cho đến nay, cơ chế cảm ứng apoptosis của tế bào này vẫn chưa được làm sáng tỏ. Mức độ stress oxy hoá tăng cao ở vùng vỏ buồng trứng xung quanh vị trí ảnh hưởng của các mô lạc nội mạc tử cung. Các báo cáo cũng ghi nhận mức độ stress oxy hoá tăng cao hơn trong dịch nang thu nhận từ những nang noãn lân cận vị trí xuất hiện các mô mảng lạc nội mạc trên buồng trứng, và cũng như trong các nang noãn của bệnh nhân được chẩn đoán lạc nội mạc tử cung cho dù dịch nang thu nhận từ các nang này có gần với vị trí phát hiện sự hiện diện của các mảng mô lạc nội mạc hay không. Hơn nữa, các tế bào hạt – hoàng thể (granulosa – lutein cell) thu nhận được trong quá trình điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) biểu hiện các phân tử đánh dấu đặc trưng cho các stress oxy hoá ở mức độ khá cao. Do đó, có thể đặt giả thuyết rằng mức độ stress oxy hoá cao hơn ở các tế bào hạt trên buồng trứng bị ảnh hưởng bởi mô lạc nội mạc có thể hoạt hoá stress trên lưới nội chất và dẫn đến tình trạng apoptosis ở các tế bào này.
Stress trên lưới nội chất là một nhân tố nội sinh có liên quan mật thiết với stress oxy hoá. Stress tăng cao do sự tích luỹ của những protein chưa trải qua quá trình gấp cuộn hoặc những protein gấp cuộn sai lỗi trong cấu trúc lưới nội chất bên trong bào tương, điều này có thể gây ra bởi nhiều điều kiện sinh lý và bệnh lý bao gồm các stress oxy hoá hoặc các phản ứng viêm. Stress trên lưới nội chất sẽ dẫn đến hoạt hoá một số con đường truyền tín hiệu nội bào có vai trò quan trọng trong quá trình kiểm soát các đáp ứng của tế bào chống lại stress và có thể ảnh hưởng đến chức năng của tế bào, thậm chí gây apoptosis nếu như tế bào không thể đáp ứng lại các tác nhân gây stress đó. Stress trên lưới nội chất đã được chứng minh là được hoạt hoá ở các tế bào hạt của các nang noãn đang phát triển. Điều này có thể điều hoà các chức năng của tế bào và do đó góp phần vào các cơ chế bệnh sinh khác nhau bao gồm hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS – Ovarian Hyperstimulation Syndrome), bệnh lý thiếu hụt progesterone liên quan đến béo phì (obesity – related progesterone deficiency), hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS – polycystic ovary syndrome) và tình trạng noãn tiềm năng kém do ảnh hưởng quá trình xử lý sản phẩm cuối của quá trình glycosyl hoá (advanced glycation end product (AGE)-related poor oocyte developmental competence).
Để kiểm chứng các giả thuyết trên, Kunitomi C và cộng sự (2020) đã thực hiện nghiên cứu đánh giá tình trạng apoptosis và stress oxy hoá trên các tế bào hạt trên những buồng trứng bị ảnh hưởng bởi các mô lạc nội mạc tử cung.
Thiết kế nghiên cứu
Tế bào hạt từ 7 bệnh nhân được chẩn đoán lạc nội mạc tử cung và 16 bệnh nhân điều trị TTTON không có tình trạng lạc nội mạc tử cung được thu nhận. Tình trạng apoptosis được đánh giá bằng phương pháp TUNEL (Terminal deoxynucleotidyl transferase dUTP nick end labelling), định lượng caspase – 8 bằng Caspase-8 Assay kit và định lượng caspase-3 bằng phương pháp Western blot; phương pháp hoá mô miễn dịch cũng được thực hiện trên các mẫu mô thu nhận từ vỏ buồng trứng để đánh giá tỉ lệ nang noãn trơ hoá và tỉ lệ nhân phân mảnh trên các lớp tế bào hạt. Tình trạng stress oxy hoá trên các tế bào này được thực hiện bởi phương pháp nuôi cấy các tế bào hạt và ủ với H2O2. Các tế bào này sau đó được tách chiết RNA (Ribonucleic acid) và dùng kỹ thuật qRT-PCR (reverse transcription realtime quantitative Polymerase Chain Reaction) để định lượng sự biểu hiện các phân tử đánh dấu (marker) đặc trưng cho stress trên lưới nội chất.
Kết quả
Các tế bào hạt ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung biểu hiện ở mức cao các phân tử đánh dấu đặc trưng cho các đáp ứng stress trên lưới nội chất. Các stress oxy hoá giả lập bởi H2O2 trên các tế bào nuôi cấy cho thấy rằng tình trạng stress oxy hoá kích hoạt quá trình apoptosis thông qua caspase-8 và caspase-3. Các kết quả phân tích trong nghiên cứu này chỉ ra rằng các stress trên lưới nội chất hoạt hoá bởi các tác nhân stress oxy hoá ở các tế bào hạt trên buồng trứng bị ảnh hưởng bởi các mô lạc nội mạc làm trung gian cho quá trình apoptosis của các tế bào này. Từ đó, dẫn đến rối loạn chức năng buồng trứng ở bệnh nhân được chẩn đoán lạc nội mạc tử cung.
Nguồn: Kunitomi C, Harada M, Takahashi N, Azhary JMK, Kusamoto A, Nose E, Oi N, Takeuchi A, Wada-Hiraike O, Hirata T, Hirota Y, Koga K, Fujii T, Osuga Y. Activation of endoplasmic reticulum stress mediates oxidative stress-induced apoptosis of granulosa cells in ovaries affected by endometrioma. Mol Hum Reprod. 2020 Jan 1;26(1):40-52. doi: 10.1093/molehr/gaz066. PMID: 31869409.
Giới thiệu
Lạc nội mạc tử cung xuất hiện với tần suất khoảng 6 – 10% trên những phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và có nguy cơ gây ra tình trạng vô sinh ở những bệnh nhân này. Một vài báo cáo cho thấy khoảng 35 – 50% những phụ nữ vô sinh có tình trạng lạc nội mạc tử cung và khoảng 30 – 50% có tình trạng lạc nội mạc tử cung được chẩn đoán vô sinh. Cơ chế sinh học mô tả mối tương quan giữa vô sinh và tình trạng lạc nội mạc tử cung hiện nay vẫn chưa được làm rõ. Tuy nhiên, tình trạng lạc nội mạc tử cung tại buồng trứng (endometrioma) được cho rằng gây ra các tác động bất lợi đến hoạt động sinh lý của buồng trứng. Tỉ lệ các nang noãn rơi vào tình trạng trơ hoá (atresia) và thoái hoá sớm ở vỏ buồng trứng được chứng minh là có sự tăng cao đáng kể ở những bệnh nhân có tình trạng lạc nội mạc tử cung tại buồng trứng. Các nang noãn trơ hoá trước khi chúng đến được giai đoạn nang noãn tiền hốc có thể liên quan đến sự khởi phát quá trình chết theo chương trình của tế bào (apoptosis) của các tế bào hạt (granulosa cell). Mặt khác, các tế bào hạt từ những bệnh nhân lạc nội mạc tử cung cũng cho thấy có mức độ apoptosis tăng cao đáng kể.
Trong số các yếu tố gây bệnh có liên quan đến tình trạng lạc nội mạc tử cung, nhiều ý kiến cho rằng các stress oxy hoá có thể đóng góp đáng kể vào quá trình cảm ứng apoptosis ở những tế bào hạt, mặc dù cho đến nay, cơ chế cảm ứng apoptosis của tế bào này vẫn chưa được làm sáng tỏ. Mức độ stress oxy hoá tăng cao ở vùng vỏ buồng trứng xung quanh vị trí ảnh hưởng của các mô lạc nội mạc tử cung. Các báo cáo cũng ghi nhận mức độ stress oxy hoá tăng cao hơn trong dịch nang thu nhận từ những nang noãn lân cận vị trí xuất hiện các mô mảng lạc nội mạc trên buồng trứng, và cũng như trong các nang noãn của bệnh nhân được chẩn đoán lạc nội mạc tử cung cho dù dịch nang thu nhận từ các nang này có gần với vị trí phát hiện sự hiện diện của các mảng mô lạc nội mạc hay không. Hơn nữa, các tế bào hạt – hoàng thể (granulosa – lutein cell) thu nhận được trong quá trình điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) biểu hiện các phân tử đánh dấu đặc trưng cho các stress oxy hoá ở mức độ khá cao. Do đó, có thể đặt giả thuyết rằng mức độ stress oxy hoá cao hơn ở các tế bào hạt trên buồng trứng bị ảnh hưởng bởi mô lạc nội mạc có thể hoạt hoá stress trên lưới nội chất và dẫn đến tình trạng apoptosis ở các tế bào này.
Stress trên lưới nội chất là một nhân tố nội sinh có liên quan mật thiết với stress oxy hoá. Stress tăng cao do sự tích luỹ của những protein chưa trải qua quá trình gấp cuộn hoặc những protein gấp cuộn sai lỗi trong cấu trúc lưới nội chất bên trong bào tương, điều này có thể gây ra bởi nhiều điều kiện sinh lý và bệnh lý bao gồm các stress oxy hoá hoặc các phản ứng viêm. Stress trên lưới nội chất sẽ dẫn đến hoạt hoá một số con đường truyền tín hiệu nội bào có vai trò quan trọng trong quá trình kiểm soát các đáp ứng của tế bào chống lại stress và có thể ảnh hưởng đến chức năng của tế bào, thậm chí gây apoptosis nếu như tế bào không thể đáp ứng lại các tác nhân gây stress đó. Stress trên lưới nội chất đã được chứng minh là được hoạt hoá ở các tế bào hạt của các nang noãn đang phát triển. Điều này có thể điều hoà các chức năng của tế bào và do đó góp phần vào các cơ chế bệnh sinh khác nhau bao gồm hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS – Ovarian Hyperstimulation Syndrome), bệnh lý thiếu hụt progesterone liên quan đến béo phì (obesity – related progesterone deficiency), hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS – polycystic ovary syndrome) và tình trạng noãn tiềm năng kém do ảnh hưởng quá trình xử lý sản phẩm cuối của quá trình glycosyl hoá (advanced glycation end product (AGE)-related poor oocyte developmental competence).
Để kiểm chứng các giả thuyết trên, Kunitomi C và cộng sự (2020) đã thực hiện nghiên cứu đánh giá tình trạng apoptosis và stress oxy hoá trên các tế bào hạt trên những buồng trứng bị ảnh hưởng bởi các mô lạc nội mạc tử cung.
Thiết kế nghiên cứu
Tế bào hạt từ 7 bệnh nhân được chẩn đoán lạc nội mạc tử cung và 16 bệnh nhân điều trị TTTON không có tình trạng lạc nội mạc tử cung được thu nhận. Tình trạng apoptosis được đánh giá bằng phương pháp TUNEL (Terminal deoxynucleotidyl transferase dUTP nick end labelling), định lượng caspase – 8 bằng Caspase-8 Assay kit và định lượng caspase-3 bằng phương pháp Western blot; phương pháp hoá mô miễn dịch cũng được thực hiện trên các mẫu mô thu nhận từ vỏ buồng trứng để đánh giá tỉ lệ nang noãn trơ hoá và tỉ lệ nhân phân mảnh trên các lớp tế bào hạt. Tình trạng stress oxy hoá trên các tế bào này được thực hiện bởi phương pháp nuôi cấy các tế bào hạt và ủ với H2O2. Các tế bào này sau đó được tách chiết RNA (Ribonucleic acid) và dùng kỹ thuật qRT-PCR (reverse transcription realtime quantitative Polymerase Chain Reaction) để định lượng sự biểu hiện các phân tử đánh dấu (marker) đặc trưng cho stress trên lưới nội chất.
Kết quả
Các tế bào hạt ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung biểu hiện ở mức cao các phân tử đánh dấu đặc trưng cho các đáp ứng stress trên lưới nội chất. Các stress oxy hoá giả lập bởi H2O2 trên các tế bào nuôi cấy cho thấy rằng tình trạng stress oxy hoá kích hoạt quá trình apoptosis thông qua caspase-8 và caspase-3. Các kết quả phân tích trong nghiên cứu này chỉ ra rằng các stress trên lưới nội chất hoạt hoá bởi các tác nhân stress oxy hoá ở các tế bào hạt trên buồng trứng bị ảnh hưởng bởi các mô lạc nội mạc làm trung gian cho quá trình apoptosis của các tế bào này. Từ đó, dẫn đến rối loạn chức năng buồng trứng ở bệnh nhân được chẩn đoán lạc nội mạc tử cung.
Nguồn: Kunitomi C, Harada M, Takahashi N, Azhary JMK, Kusamoto A, Nose E, Oi N, Takeuchi A, Wada-Hiraike O, Hirata T, Hirota Y, Koga K, Fujii T, Osuga Y. Activation of endoplasmic reticulum stress mediates oxidative stress-induced apoptosis of granulosa cells in ovaries affected by endometrioma. Mol Hum Reprod. 2020 Jan 1;26(1):40-52. doi: 10.1093/molehr/gaz066. PMID: 31869409.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Điều trị vô sinh nguyên phát trên bệnh nhân mắc hội chứng Mccune-albright: báo cáo một ca điều trị thụ tinh trong ống nghiệm thành công - Ngày đăng: 21-12-2021
Liệu có thể sử dụng một phác đồ rã đông duy nhất cho tất cả phôi nang đã đông lạnh bằng phương pháp thuỷ tinh hoá sử dụng các hệ môi trường đông lạnh khác nhau hay không? - Ngày đăng: 20-12-2021
Mối tương quan giữa BMI bất thường và kết quả chuyển phôi đông lạnh: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 20-12-2021
ZEB2, nhân tố điều hoà chính của quá trình chuyển dạng biểu mô – trung mô, một quá trình trung gian cho sự biệt hoá của tế bào lá nuôi phôi - Ngày đăng: 18-12-2021
Sự tăng cường biểu hiện của tace góp phần làm tăng nồng độ sVCAM-I ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung - Ngày đăng: 15-12-2021
Chất lượng phôi nang và kết cục chu sinh ở những phụ nữ thực hiện chuyển đơn phôi nang trong chu kỳ đông lạnh - Ngày đăng: 15-12-2021
Phương pháp sử dụng oxy hai pha (5–2%) cải thiện đáng kể tỷ lệ phôi nang hữu dụng và tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn trong thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 15-12-2021
Phác đồ kích thích buồng trứng ppos sử dụng corifollitropin alfa ở phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang có hiệu quả ngăn chặn tăng LH sớm và giảm số mũi tiêm so với phác đồ GnRH đối vận - Ngày đăng: 15-12-2021
Kỹ thuật đông lạnh noãn có làm gia tăng tỷ lệ phôi lệch bội? - Ngày đăng: 13-12-2021
Đặc điểm động học phát triển của phôi khảm - Ngày đăng: 13-12-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK