Tin tức
on Monday 20-12-2021 4:09pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Duy Tùng
Hiện nay, ngày càng nhiều trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm ra đời, điều này giúp bệnh nhân có nhiều trung tâm để lựa chọn điều trị. Và điều đó sinh ra nhu cầu chuyển phôi của bệnh nhân từ trung tâm này sang trung tâm khác để sử dụng. Trữ lạnh bằng phương pháp thuỷ tinh hoá đã trở thành tiêu chuẩn vàng trong trữ đông phôi những năm gần đây, và đối với những nhà sản xuất môi trường họ thường cung cấp các bộ môi trường trữ và kèm với các bộ rã tương ứng để cho kết quả tối ưu. Tuy nhiên, đối với những labo nuôi cấy phôi IVF, việc trang bị nhiều bộ môi trường để phù hợp cho từng bệnh nhân chuyển phôi đông lạnh từ các trung tâm khác về sẽ làm gia tăng chi phí cũng như gánh nặng về quy trình. Những bộ môi trường từ những hãng sản xuất khác nhau thường chỉ có sự khác biệt nhỏ trong thành phần, mặc dù nồng độ chính xác của từng thành phần trong môi trường thường không được công bố. Để giảm thiểu gánh nặng về nhân lực và chi phí cho các phòng thí nghiệm phôi học trong quá trình trữ lạnh và rã đông phôi, việc hướng tới sử dụng chung một bộ môi trường rã cho những bộ môi trường trữ khác nhau đã được đề xuất sử dụng và đã được thử nghiệm thành công trên cả mẫu đông lạnh chậm và thuỷ tinh hoá. Một số nghiên cứu đã cho thấy kết quả lâm sàng khi sử dụng những bộ môi trường trữ, rã khác nhau trên noãn và phôi phân chia của những nhà sản xuất khác nhau cho kết quả khả quan về tỷ lệ sống, tỷ lệ phôi phát triển thành phôi nang và tỷ lệ làm tổ. Tuy nhiên, vẫn chưa có nhiều bằng chứng về các kết quả khi thực hiện với phôi nang, và nghiên cứu này được thực hiện nhằm bổ sung thêm các bằng chứng về việc sử dụng một hệ môi trường rã đông cho phôi nang đông lạnh bằng nhiều hệ môi trường trữ khác nhau.
Nghiên cứu đoàn hệ chiều dọc (longitudinal cohort study) được thực hiện trên 255 phôi nang được trữ lạnh bằng phương pháp thuỷ tinh hoá sử dụng môi trường của Kitazato và được rã đông bằng một trong ba loại môi trường thương mại của Kitazato (KK), Sage (KS) hoặc Irvine (KI). Nghiên cứu sẽ phân tích tỷ lệ sống sau rã, tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ trẻ sinh sống và tỷ lệ sảy thai và phân nhóm bệnh nhân dựa vào nguồn noãn (tự thân – 139 phôi, xin noãn -116 phôi). Sau khi phân tích, nhóm nghiên cứu thu được một số kết quả như sau:
Trên nhóm sử dụng noãn tự thân:
Trên nhóm bệnh nhân xin noãn:
Nguồn: Canosa S, Parmegiani L, Charrier L, et al. Are commercial warming kits interchangeable for vitrified human blastocysts? Further evidence for the adoption of a Universal Warming protocol [published online ahead of print, 2021 Nov 30]. J Assist Reprod Genet. 2021;10.1007/s10815-021-02364-1. doi:10.1007/s10815-021-02364-1
Hiện nay, ngày càng nhiều trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm ra đời, điều này giúp bệnh nhân có nhiều trung tâm để lựa chọn điều trị. Và điều đó sinh ra nhu cầu chuyển phôi của bệnh nhân từ trung tâm này sang trung tâm khác để sử dụng. Trữ lạnh bằng phương pháp thuỷ tinh hoá đã trở thành tiêu chuẩn vàng trong trữ đông phôi những năm gần đây, và đối với những nhà sản xuất môi trường họ thường cung cấp các bộ môi trường trữ và kèm với các bộ rã tương ứng để cho kết quả tối ưu. Tuy nhiên, đối với những labo nuôi cấy phôi IVF, việc trang bị nhiều bộ môi trường để phù hợp cho từng bệnh nhân chuyển phôi đông lạnh từ các trung tâm khác về sẽ làm gia tăng chi phí cũng như gánh nặng về quy trình. Những bộ môi trường từ những hãng sản xuất khác nhau thường chỉ có sự khác biệt nhỏ trong thành phần, mặc dù nồng độ chính xác của từng thành phần trong môi trường thường không được công bố. Để giảm thiểu gánh nặng về nhân lực và chi phí cho các phòng thí nghiệm phôi học trong quá trình trữ lạnh và rã đông phôi, việc hướng tới sử dụng chung một bộ môi trường rã cho những bộ môi trường trữ khác nhau đã được đề xuất sử dụng và đã được thử nghiệm thành công trên cả mẫu đông lạnh chậm và thuỷ tinh hoá. Một số nghiên cứu đã cho thấy kết quả lâm sàng khi sử dụng những bộ môi trường trữ, rã khác nhau trên noãn và phôi phân chia của những nhà sản xuất khác nhau cho kết quả khả quan về tỷ lệ sống, tỷ lệ phôi phát triển thành phôi nang và tỷ lệ làm tổ. Tuy nhiên, vẫn chưa có nhiều bằng chứng về các kết quả khi thực hiện với phôi nang, và nghiên cứu này được thực hiện nhằm bổ sung thêm các bằng chứng về việc sử dụng một hệ môi trường rã đông cho phôi nang đông lạnh bằng nhiều hệ môi trường trữ khác nhau.
Nghiên cứu đoàn hệ chiều dọc (longitudinal cohort study) được thực hiện trên 255 phôi nang được trữ lạnh bằng phương pháp thuỷ tinh hoá sử dụng môi trường của Kitazato và được rã đông bằng một trong ba loại môi trường thương mại của Kitazato (KK), Sage (KS) hoặc Irvine (KI). Nghiên cứu sẽ phân tích tỷ lệ sống sau rã, tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ trẻ sinh sống và tỷ lệ sảy thai và phân nhóm bệnh nhân dựa vào nguồn noãn (tự thân – 139 phôi, xin noãn -116 phôi). Sau khi phân tích, nhóm nghiên cứu thu được một số kết quả như sau:
Trên nhóm sử dụng noãn tự thân:
- Tỷ lệ sống giữa 3 nhóm tương đương nhau: 100% ở nhóm KK, 97,6% ở nhóm KS và 97,6% ở nhóm KI (p = 0,59).
- Tỷ lệ thai lâm sàng không quá khác biệt: 38,3% ở nhóm KK, 49% ở nhóm KS và 56,1% ở nhóm KI (p = 0,24).
- Tỷ lệ trẻ sinh sống lần lượt là 29,8% ở nhóm KK, 36,7% ở nhóm KS và cao nhất ở nhóm KI đạt 46,3% nhưng không đạt ý nghĩa thống kê (p = 0,28)
Trên nhóm bệnh nhân xin noãn:
- Tỷ lệ sống đều đạt 100% ở cả 3 nhóm.
- Tỷ lệ thai lâm sàng và trẻ sinh sống ở cả 3 nhóm môi trường KK, KS và KI cho kết quả tương đồng như nhóm noãn tự thân với tỷ lệ trẻ sinh sống cao nhất ở nhóm KI nhưng đều không đạt ý nghĩa thống kê.
Nguồn: Canosa S, Parmegiani L, Charrier L, et al. Are commercial warming kits interchangeable for vitrified human blastocysts? Further evidence for the adoption of a Universal Warming protocol [published online ahead of print, 2021 Nov 30]. J Assist Reprod Genet. 2021;10.1007/s10815-021-02364-1. doi:10.1007/s10815-021-02364-1
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối tương quan giữa BMI bất thường và kết quả chuyển phôi đông lạnh: một tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 20-12-2021
ZEB2, nhân tố điều hoà chính của quá trình chuyển dạng biểu mô – trung mô, một quá trình trung gian cho sự biệt hoá của tế bào lá nuôi phôi - Ngày đăng: 18-12-2021
Sự tăng cường biểu hiện của tace góp phần làm tăng nồng độ sVCAM-I ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung - Ngày đăng: 15-12-2021
Chất lượng phôi nang và kết cục chu sinh ở những phụ nữ thực hiện chuyển đơn phôi nang trong chu kỳ đông lạnh - Ngày đăng: 15-12-2021
Phương pháp sử dụng oxy hai pha (5–2%) cải thiện đáng kể tỷ lệ phôi nang hữu dụng và tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn trong thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 15-12-2021
Phác đồ kích thích buồng trứng ppos sử dụng corifollitropin alfa ở phụ nữ bị hội chứng buồng trứng đa nang có hiệu quả ngăn chặn tăng LH sớm và giảm số mũi tiêm so với phác đồ GnRH đối vận - Ngày đăng: 15-12-2021
Kỹ thuật đông lạnh noãn có làm gia tăng tỷ lệ phôi lệch bội? - Ngày đăng: 13-12-2021
Đặc điểm động học phát triển của phôi khảm - Ngày đăng: 13-12-2021
Mối tương quan giữa nồng độ progesterone vào ngày chọc hút trứng với các loại hormon cơ bản và kết quả điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 11-12-2021
Mối tương quan giữa nồng độ progesterone vào ngày chọc hút trứng với các loại hormon cơ bản và kết quả điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 11-12-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK