Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 15-12-2020 3:02pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Nguyễn Thị Ngọc Huệ - IVFMD Bình Dương

Hiện tại, xu hướng chuyển đơn phôi và đông lạnh số phôi còn lại là chính sách phổ biến ở nhiều trung tâm hỗ trợ sinh sản. Trong đó, dụng cụ đông lạnh được sử dụng thường là vật liệu polystyrene chịu được nhiệt trong ni tơ lỏng, cho phép chứa noãn/phôi với thể tích tối thiểu, có thể rã đông nhanh chóng mà vẫn đảm bảo chất lượng noãn/phôi. Số lượng noãn/phôi được đông lạnh trên dụng cụ chứa sẽ được chỉ định bởi bác sĩ hoặc chuyên viên phôi học tùy thuộc vào đặc điểm của từng bệnh nhân. Tuy nhiên, số lượng noãn/phôi tối đa được đặt trên một dụng cụ là khác nhau tùy theo khuyến cáo của nhà sản xuất, có thể dao động ở số lượng 1, 2, 3 hay 4 phôi/dụng cụ (Kitazato, Cryotop, S-Cryolock). Hiện tại, hầu hết các thực hành đều dựa trên khuyến cáo của nhà sản xuất, dù vậy các dữ liệu về số lượng noãn/phôi tối đa trên mỗi dụng cụ và kết quả phôi sống sau rã đông vẫn còn chưa đầy đủ. Do đó, Adva Aizer và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu nhằm đánh giá số lượng phôi phù hợp trên mỗi dụng cụ ở từng giai đoạn khác nhau.

Đây là một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 1 năm 2020 trên 2217 chu kì rã đông phôi và được chia thành 2 nhóm: nhóm 1 gồm 1638 chu kì với 3046 phôi giai đoạn phân chia được rã đông, nhóm 2 gồm 579 chu kì với 695 phôi nang được rã đông. Mỗi nhóm được chia thành 3 nhóm nhỏ với số lượng phôi khác nhau được đông lạnh trên mỗi dụng cụ, tương ứng 1, 2 và 3 phôi/dụng cụ đối với nhóm phôi phân chia và 1,2 phôi/dụng cụ đối với nhóm phôi nang. Kết quả được đánh giá trên tỉ lệ phôi sống và sống nguyên. Quy trình thủy tinh hóa sử dụng bộ Vitrification Kit với dụng cụ Cryotop theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Kết quả cho thấy:

- Tổng tỉ lệ phôi sống sau thủy tinh hóa của phôi ở giai đoạn phôi phân chia và phôi nang là 94,8%.
- Ở nhóm phôi phân chia:

+ Tỉ lệ phôi sống sau rã khi đông lạnh 3 phôi/dụng cụ cao hơn đáng kể so với đông lạnh 1 phôi/dụng cụ, tương ứng 95,9% và 93,7% (p<0,039), kết quả không khác biệt khi so sánh với đông lạnh 2 phôi/dụng cụ, tương ứng 94,8%.
+ Tỉ lệ phôi sống nguyên là 91,5% khi đông lạnh 3 phôi/dụng cụ so với 85,7% ở nhóm đông lạnh 1 phôi/dụng cụ (85,7%, p<0,0002) và 2 phôi/dụng cụ (87,3%, p<0,004)
- Đối với nhóm phôi nang:
+ Tỉ lệ phôi sống sau rã khi đông lạnh 1 phôi/dụng cụ không khác biệt với 2 phôi/dụng cụ, tương ứng 94,4% và 94%.
+ Tỷ lệ phôi sống nguyên ở nhóm 2 phôi/dụng cụ thấp hơn đáng kể so với 1 phôi/dụng cụ, tương ứng 76,7% và 87,9%, P <0,0193.

Như vậy, các kết quả từ nghiên cứu cho thấy số lượng phôi được chứa trên mỗi dụng cụ có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ phôi sống nguyên sau rã với số lượng tối ưu ở nhóm phôi phân chia là 3 phôi/dụng cụ và nhóm phôi nang là 1 phôi/dụng cụ.
 
Nguồn: Adva Aizer và cs., (2020). Does the number of embryos loaded on a single cryo-carrier affect post-vitrification survival rate? Zygote. DOI: 10.1017/S0967199420000453
 

Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK