Tin tức
on Thursday 10-12-2020 9:20am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phan Thị Nhật Vy – Chuyên viên phôi học IVFAS
Những năm gần đây, nhờ sự phát triển của điều kiện nuôi cấy cũng như sự ra đời của kỹ thuật đông lạnh phôi- chuyển phôi trữ đã giúp giảm số lượng phôi chuyển trong chu kì chuyển phôi tươi, lưu trữ những phôi còn dư để sử dụng ở các chu kì sau, cũng như hỗ trợ cho nhiều trường hợp không thể chuyển phôi tươi như bệnh nhân có nguy cơ quá kích buồng trứng, hay chờ người mang thai hộ. Ngoài ra chuyển phôi trữ còn được sử dụng cho các trường hợp sinh thiết phôi để xác định các rối loạn về di truyền.
Xu hướng giảm số lượng phôi chuyển đặt ra câu hỏi về việc tối ưu hóa lựa chọn phôi có chất lượng tốt nhất và có tiềm năng phát triển thành trẻ sinh sống cao nhất. Hiện nay, hình thái phôi nang vẫn được xem là tiêu chí đánh giá phổ biến nhất. Một số nghiên cứu cho thấy tuổi phôi trữ, hình thái lớp TE, khối ICM và độ nở rộng khoang phôi có tương quan với tỷ lệ trẻ sinh sống. Tuy nhiên những dữ liệu này giới hạn cho nhóm phôi nang không thực hiện PGT – A. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy nhóm phôi nguyên bội được xác định qua PGT – A có tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn và tỷ lệ sẩy thai thấp hơn so với nhóm không thực hiện sinh thiết.
Nghiên cứu mới đây của Shear và cộng sự (2020) được thực hiện nhằm xác định các đặc điểm phôi có tương quan với tỷ lệ trẻ sinh sống trong chu kỳ chuyển phôi trữ và đánh giá vai trò của hình thái phôi đối với trường hơp có thực hiện PGT – A và không thực hiện PGT – A.
Đây là nghiên cứu hồi cứu thực hiện từ 1/7/2013 – 31/12/2017 trên nhóm bệnh nhân thực hiện IVF/ICSI chuyển đơn phôi trữ lạnh ngày 5, có hoặc không thực hiện PGT – A. Những trường hợp xin trứng, sinh thiết phôi ngày 3 bị loại khỏi nghiên cứu.
Đối với trường hợp có PGT – A, phôi được hỗ trợ thoát màng bằng laser vào ngày 3. Những phôi được xác định nguyên bội sẽ được chuyển phôi. Đối với trường hợp không PGT – A, phôi được làm sụp trước khi trữ lạnh phôi. Những phôi đạt chất lượng để trữ trong nghiên cứu phải có chất lượng 3BB trở lên.
Nghiên cứu đã thu nhận được số liệu từ 6271 chu kì chuyển phôi trữ. Trong đó có 2480 (40%) phôi được xác định là nguyên bội qua PGT – A và 3793 (60%) phôi không thực hiện PGT – A.
Phôi có PGT – A có tỷ lệ sẩy thai thấp hơn đáng kể; tỷ lệ β-hCG dương, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn so với nhóm không sinh thiết (6,5% và 9,1%; 73% và 66%; 63% và 52%; 56% và 42%).
Nhóm phôi có thực hiện PGT – A: tuổi phôi (ngày 6 và ngày 5), hình thái tế bào TE (loại A – B – C) và độ nở rộng khoang phôi không có tương quan với tỷ lệ trẻ sinh sống. Hình thái ICM có tương quan với tỷ lệ trẻ sinh sống (loại B so với loại A; aRR 0,96, 95% CI 0,89–1,04) và loại C so với loại A; aRR 0,90, 95% CI 0,55–1,5).
Nhóm phôi không thực hiện PGT – A: tỷ lệ trẻ sinh sống thấp hơn đáng kể ở nhóm trữ phôi ngày 6 so với ngày 5 (aRR 0,87, 95% CI 0,78–0,96); hình thái lớp TE loại B so với loại A (aRR 0,86, 95% CI 0,79–0,94) và độ nở rộng độ 4 so với độ 5. Hình thái khối ICM không ảnh hưởng đặc biệt đến tỷ lệ trẻ sinh sống.
Đối với phôi nang không được thực hiện PGT – A, việc đánh giá chất lượng phôi thông qua hình thái lớp TE, độ nở rộng khoang phôi và tuổi phôi trữ lạnh có thể giúp xác định phôi có tiềm năng phát triển thành trẻ sinh sống cao nhất. Đối với nhóm phôi nang được xác định nguyên bội thông qua PGT – A, hình thái phôi và ngày trữ phôi dường như ít quan trọng hơn trong việc lựa chọn phôi.
Nguồn: Shear, M. A., Vaughan, D. A., Modest, A. M., Seidler, E. A., Leung, A. Q., Hacker, M. R., ... & Penzias, A. S. (2020). Blasts from the past: is morphology useful in PGT-A tested and untested frozen embryo transfers? Reproductive BioMedicine Online.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Đột biến trong thành phần phức hợp duy trì nhiễm sắc thể (MCM9) có thể gây suy buồng trứng sớm - Ngày đăng: 09-12-2020
Sự hiện diện của VIRUS HERPES – 6A trên nội mạc tử cung ở nhóm phụ nữ vô sinh chưa rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 09-12-2020
Suy buồng trứng sớm có di truyền sang những thế hệ tiếp theo không - Ngày đăng: 09-12-2020
DNA TY thể ở tinh trùng: Biomarker mới trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 09-12-2020
Mối liên quan giữa việc hút thuốc lá của người cha trong thai kỳ và chất lượng tinh dịch ở con trai - Ngày đăng: 09-12-2020
Phơi nhiễm khói thuốc lá trong tử cung, từ môi trường và nội tiết sinh sản của bé gái gần tuổi dậy thì - Ngày đăng: 09-12-2020
Mối liên quan giữa cà phê và caffeine với vô sinh nam: một tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 09-12-2020
Phân tích gộp về kết quả thai lâm sàng của chuyển phôi trữ ngày 5 so với ngày 6 - Ngày đăng: 09-12-2020
Khi nào chúng ta nên sử dụng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) - Ngày đăng: 09-12-2020
Nguy cơ sẩy thai sớm khi điều trị ivm so với các phác đồ kích thích buồng trứng tiêu chuẩn cho icsi ở những bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 09-12-2020
Tổng quan về khả năng di động của tinh trùng - Ngày đăng: 09-12-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK