Tin tức
on Monday 06-07-2020 11:05am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Phạm Ngọc Đan Thanh – IVFAS
Điều trị hiếm muộn là chặng đường chưa bao giờ dễ dàng. Trong đó, việc lựa chọn phôi chuyển tiềm năng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tỉ lệ thành công. Thông thường, phôi sẽ được xếp loại và lựa chọn chuyển hoặc trữ đông theo chất lượng phôi và nội mạc tử cung tuỳ theo tình huống. Bên cạnh phương pháp lựa chọn phôi bằng hình thái thông thường, các thông số động học từ hệ thống nuôi cấy Timelapse và kỹ thuật xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT) cũng cung cấp thêm nhiều thông tin giúp lựa chọn phôi hiệu quả hơn. Tuy nhiên, kỹ thuật PGT tại Nhật vẫn còn đang tranh cãi nên chưa được cho phép thực hiện. Vì vậy, nhóm tác giả chú trọng phát triển việc sử dụng triệt để các thông số động học từ hệ thống nuôi cấy Timelapse.
Một số nghiên cứu cho thấy việc chuyển phôi ngày 5 có tỉ lệ thành công cao hơn so với phôi ngày 6. Tuy nhiên, sự phát triển sớm hoặc trễ từ giai đoạn sớm (early blastocyst - EB) đến lúc nở rộng hoàn toàn (expanded blastocyst) có phản ánh đến tiềm năng phôi hay không vẫn chưa được làm rõ.
Điều trị hiếm muộn là chặng đường chưa bao giờ dễ dàng. Trong đó, việc lựa chọn phôi chuyển tiềm năng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tỉ lệ thành công. Thông thường, phôi sẽ được xếp loại và lựa chọn chuyển hoặc trữ đông theo chất lượng phôi và nội mạc tử cung tuỳ theo tình huống. Bên cạnh phương pháp lựa chọn phôi bằng hình thái thông thường, các thông số động học từ hệ thống nuôi cấy Timelapse và kỹ thuật xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT) cũng cung cấp thêm nhiều thông tin giúp lựa chọn phôi hiệu quả hơn. Tuy nhiên, kỹ thuật PGT tại Nhật vẫn còn đang tranh cãi nên chưa được cho phép thực hiện. Vì vậy, nhóm tác giả chú trọng phát triển việc sử dụng triệt để các thông số động học từ hệ thống nuôi cấy Timelapse.
Một số nghiên cứu cho thấy việc chuyển phôi ngày 5 có tỉ lệ thành công cao hơn so với phôi ngày 6. Tuy nhiên, sự phát triển sớm hoặc trễ từ giai đoạn sớm (early blastocyst - EB) đến lúc nở rộng hoàn toàn (expanded blastocyst) có phản ánh đến tiềm năng phôi hay không vẫn chưa được làm rõ.
Nghiên cứu được thực hiện tại Đan Mạch nhằm đánh giá mối tương quan giữa thời gian phát triển của phôi từ giai đoạn sớm của phôi nang đến lúc nở rộng hoàn toàn với kết quả điều trị. Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu với nhóm bệnh nhân có độ tuổi trung bình 38.2 thực hiện chuyển đơn phôi trữ trong giai đoạn 2013-2017. Dữ liệu được thu thập từ 7283 phôi từ các chu kỳ IVF/ICSI nuôi cấy bằng hệ thống timelapse (EmbryoScope, Danmark). Trong đó, thời gian từ lúc phôi đạt giai đoạn phôi nang đến lúc nở hoàn toàn được ghi nhận và sẽ được tiến hành trữ. 5177 phôi đã được chuyển cho bệnh nhân, các tỉ lệ sống sau rã đông, tỉ lệ thai và tỉ lệ trẻ sinh sống được thu thập.
Bệnh nhân được chia thành 3 nhóm theo thời gian phôi nở rộng hoàn toàn từ giai đoạn EB: nhóm (I): 0-20 giờ (3083 phôi); nhóm (II): 21-40 giờ (2011 phôi) và nhóm (III): >41 giờ (83 phôi) từ giai đoạn phôi sớm đến lúc nở rộng hoàn toàn.
Kết quả: Tỉ lệ sống sau rã của nhóm (I) cao hơn hẳn so với nhóm (II) và (III) lần lượt là 97,6%; 95% và 92,8%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tương tự, tỉ lệ thai lâm sàng của nhóm (I) cao hơn nhóm (II) và (III) lần lượt là 58,8%; 42,9% và 14,3%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ trẻ sinh sống ở nhóm (I) (68,6%) cao hơn có ý nghĩa so với nhóm (II) (62,8%) và nhóm (III) (54,5%).
Như vậy, xét về thông số động học thì phôi có thời gian nở rộng từ giai đoạn phôi sớm (EB) đến nở hoàn toàn càng ngắn thì có tỉ lệ sống, tỉ lệ thai lâm sàng càng cao. Nhóm tác giả đề nghị thời gian nở sớm của phôi nên được cân nhắc bên cạnh các thông số động học khác, những phôi có thời gian nở hoàn toàn sớm nên được cân nhắc ưu tiên sử dụng.
Nguồn: Kobayashi, Y., Matsunaga, R., Morita, H., Hasegawa, R., Isobe, K., Miura, M., ... & Ochi, M. (2019). Embryos frozen within a short time of reaching the expanded blastocysts from the early blastocysts have high viability: time-lapse investigation of 5177 blastocysts. Fertility and Sterility, 112(3), e117.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Phương pháp thủy tinh hóa điều chỉnh cho các mẫu xuất tinh có 3 tinh trùng trở xuống và sức khoẻ của 14 trẻ được sinh ra từ phương pháp này sau 7 năm - Ngày đăng: 06-07-2020
Mối tương quan giữa tổng liều FSH với tỉ lệ sinh sống trên chu kỳ sử dụng noãn hiến tặng và chuyển phôi tươi - Ngày đăng: 04-07-2020
Kết quả lâm sàng khi chuyển phôi nang đông lạnh ở nhóm bệnh nhân trẻ, trải qua một chu kì chuyển phôi tươi thất bại - Ngày đăng: 04-07-2020
Thời gian nuôi cấy sau rã ở phôi giai đoạn phân chia có ảnh hưởng đến tỉ lệ thai? - Ngày đăng: 04-07-2020
Điều trị hiếm muộn có làm tăng nguy cơ lây truyền viêm gan B sang con không? - Ngày đăng: 01-07-2020
Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) và rậm lông có liên quan đến những rối loạn hành vi ở trẻ hay không? - Ngày đăng: 01-07-2020
Mối liên quan giữa hút thuốc lá và vô sinh nữ: một nghiên cứu bệnh chứng - Ngày đăng: 27-06-2020
ANTI-MÜLLERIAN HORMONE (AMH) - chỉ số tiên đoán khả năng sống sau trữ lạnh noãn - Ngày đăng: 26-06-2020
Ảnh hưởng của việc trì hoãn điều trị thụ tinh trong ống nghiệm đến các kết quả lâm sàng ở nhóm bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng - Ngày đăng: 26-06-2020
Phát hiện tương tác giữa gene DMRT3 và OAS3 có liên quan đến quá trình biệt hoá giới tính ở người thông qua hoạt động điều hoà biểu hiện gene ESR1 - Ngày đăng: 26-06-2020
Mối tương quan giữa tổng số tinh trùng và tỉ lệ sinh sống cộng dồn - Ngày đăng: 26-06-2020
So sánh mô bệnh học nhau thai của trẻ sinh ra từ chuyển phôi trữ và phôi tươi - Ngày đăng: 26-06-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK