Tin tức
on Saturday 04-07-2020 11:53pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Nguyễn Thị Ngọc Huệ - IVFMD Bình Dương
Đông lạnh phôi trong hỗ trợ sinh sản được xem là một trong những xu hướng đang dần trở nên phổ biến, một số đề xuất cho rằng nên áp dụng chính sách đông lạnh phôi toàn bộ (Freeze all Policy) trên các bệnh nhân điều trị, do đó chất lượng phôi sau rã cũng trở thành một yếu tố đang được quan tâm. Một số nghiên cứu cho rằng phôi được rã đông nên được nuôi cấy trong khoảng 18-24 giờ nhằm đánh giá sự phát triển của phôi bào bởi những phôi có khả năng tiếp tục phân chia sau rã có thể là một lựa chọn tốt để chuyển. Ziebe và cộng sự cho rằng tỉ lệ thai được cải thiện khi chuyển những phôi được nuôi cấy sau rã đông. Ngược lại, nghiên cứu của Rato và cộng sự cho rằng nuôi cấy sau rã đông làm giảm tỉ lệ làm tổ và khả năng phân chia của phôi. Một số nghiên cứu khác chứng minh rằng không có sự khác biệt về tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ thai và tỉ lệ sinh sống khi so sánh giữa các phôi sau rã được nuôi cấy trong thời gian dài và ngắn. Dù vậy, các nghiên cứu được thực hiện đều là những nghiên cứu hồi cứu và vẫn còn thiếu sự thống nhất trong các đánh giá. Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tỉ lệ thai khi nuôi cấy phôi sau rã trong khoảng thời gian dài và ngắn.
Đây là một nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên trên 388 bệnh nhân có phôi đông lạnh vào ngày 2 và được chia thành 2 nhóm. Nhóm BN chuyển phôi sau 2-5 giờ sau rã (nhóm D2, n= 179) và nhóm BN chuyển phôi sau 18-24 giờ sau rã (nhóm D2/D3, n= 209).
Kết quả cho thấy số phôi rã trung bình ở nhóm D2 và D2/D3 tương ứng 2,5±0,9 và 2,5±0,7 (p=0,8). Số phôi chuyển trung bình là 2,3±0,3 ở nhóm D2 và 2,4±0,6 ở nhóm D2/D3. Tỉ lệ phôi sống sau rã thấp hơn ở nhóm D2 (90,3%) so với nhóm D2/D3 (95,1%) (p=0,01). Tỉ lệ thai lâm sàng ở nhóm D2 thấp hơn so với tỉ lệ thai lâm sàng ở nhóm D2/D3, tương ứng 30,7% và 36,8% (p=0,2), khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ thai diễn tiến tương ứng 28% ở nhóm D2 và 33,5% ở nhỏm D2/D3 (p>0,05).
Như vậy, các kết quả từ nghiên cứu cho thấy việc nuôi cấy phôi sau rã trong khoảng thời gian 2-5 giờ sau rã và 18-24 giờ không có khác biệt về tỉ lệ thai lâm sàng và thai diễn tiến. Tuy nhiên, các phôi sau rã được nuôi cấy có khả năng phát triển tiếp có thể được sử dụng như một tiêu chí lựa chọn phôi tiềm năng để chuyển cho bệnh nhân.
Nguồn: Laudislena Colodetti và cs., (2020). Do different culture intervals (2 x 24 hours) after thaw of cleavage stage embryos affect pregnancy rates? A randomized controlled trial, Cryobiology. DOI:10.1016/j.cryobiol.2020.06.002
Đây là một nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên trên 388 bệnh nhân có phôi đông lạnh vào ngày 2 và được chia thành 2 nhóm. Nhóm BN chuyển phôi sau 2-5 giờ sau rã (nhóm D2, n= 179) và nhóm BN chuyển phôi sau 18-24 giờ sau rã (nhóm D2/D3, n= 209).
Kết quả cho thấy số phôi rã trung bình ở nhóm D2 và D2/D3 tương ứng 2,5±0,9 và 2,5±0,7 (p=0,8). Số phôi chuyển trung bình là 2,3±0,3 ở nhóm D2 và 2,4±0,6 ở nhóm D2/D3. Tỉ lệ phôi sống sau rã thấp hơn ở nhóm D2 (90,3%) so với nhóm D2/D3 (95,1%) (p=0,01). Tỉ lệ thai lâm sàng ở nhóm D2 thấp hơn so với tỉ lệ thai lâm sàng ở nhóm D2/D3, tương ứng 30,7% và 36,8% (p=0,2), khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ thai diễn tiến tương ứng 28% ở nhóm D2 và 33,5% ở nhỏm D2/D3 (p>0,05).
Như vậy, các kết quả từ nghiên cứu cho thấy việc nuôi cấy phôi sau rã trong khoảng thời gian 2-5 giờ sau rã và 18-24 giờ không có khác biệt về tỉ lệ thai lâm sàng và thai diễn tiến. Tuy nhiên, các phôi sau rã được nuôi cấy có khả năng phát triển tiếp có thể được sử dụng như một tiêu chí lựa chọn phôi tiềm năng để chuyển cho bệnh nhân.
Nguồn: Laudislena Colodetti và cs., (2020). Do different culture intervals (2 x 24 hours) after thaw of cleavage stage embryos affect pregnancy rates? A randomized controlled trial, Cryobiology. DOI:10.1016/j.cryobiol.2020.06.002
Các tin khác cùng chuyên mục:
Điều trị hiếm muộn có làm tăng nguy cơ lây truyền viêm gan B sang con không? - Ngày đăng: 01-07-2020
Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) và rậm lông có liên quan đến những rối loạn hành vi ở trẻ hay không? - Ngày đăng: 01-07-2020
Mối liên quan giữa hút thuốc lá và vô sinh nữ: một nghiên cứu bệnh chứng - Ngày đăng: 27-06-2020
ANTI-MÜLLERIAN HORMONE (AMH) - chỉ số tiên đoán khả năng sống sau trữ lạnh noãn - Ngày đăng: 26-06-2020
Ảnh hưởng của việc trì hoãn điều trị thụ tinh trong ống nghiệm đến các kết quả lâm sàng ở nhóm bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng - Ngày đăng: 26-06-2020
Phát hiện tương tác giữa gene DMRT3 và OAS3 có liên quan đến quá trình biệt hoá giới tính ở người thông qua hoạt động điều hoà biểu hiện gene ESR1 - Ngày đăng: 26-06-2020
Mối tương quan giữa tổng số tinh trùng và tỉ lệ sinh sống cộng dồn - Ngày đăng: 26-06-2020
So sánh mô bệnh học nhau thai của trẻ sinh ra từ chuyển phôi trữ và phôi tươi - Ngày đăng: 26-06-2020
Trì hoãn hay chuyển phôi trữ ngay lập tức sau chu kì chọc hút: một nghiên cứu tổng quan và phân tích gộp - Ngày đăng: 26-06-2020
Kích thích buồng trứng không ảnh hưởng đến tỷ lệ phôi nguyên bội và tỷ lệ sinh sống: phân tích trên 12 298 phôi sinh thiết - Ngày đăng: 23-06-2020
Chuyển phôi đông lạnh trong chu kỳ tự nhiên làm tăng tỷ lệ trẻ sinh sống so với liệu pháp HORMONE thay thế ở phụ nữ trẻ - Ngày đăng: 23-06-2020
Béo phì và sức khỏe sinh sản - Ngày đăng: 23-06-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK