Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 10-09-2008 5:45am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

nonsinhBác sĩ Geeta K. Swamy và các đồng sự thuộc Đại học Y khoa Duke ở Durham, Bắc Carolina, phát biểu rằng: “Sinh non là nguyên nhân chính của bệnh tật và tử vong ở trẻ em. Người ta ít biết đến tình trạng sức khỏe lâu dài của trẻ sinh non so với các đối tượng khác…


Chúng tôi giả thiết rằng trẻ sinh non có liên hệ không chỉ đến bệnh suất và tử suất của giai đoạn thai nhi, giai đoạn nhũ nhi, giai đoạn thiếu nhi, mà còn liên hệ với những tác động bất lợi kéo dài dai dẳng trong suốt thời kỳ trưởng thành sau này”. Mục đích cuộc nghiên cứu này làm làm rõ những ảnh hưởng lâu dài của sinh non với khả năng sinh sống và sinh sản cũng như với thế hệ tiếp theo của những đứa trẻ đó.

Lấy dữ liệu từ Medical Birth Registry tại Na Uy trong khoảng năm 1967 đến 1988, nghiên cứu cộng đồng này đã thu thập dữ liệu như sau: có 1.167.506 trường hợp đơn thai và họ theo dõi nhóm này đến năm 2002. Để lượng giá thành tựu trong học vấn và kết quả của sinh sản đến 2004, họ thu hẹp nhóm trẻ đươc sinh ra trong khoảng thời gian từ năm 1967 đến năm1976.

Trẻ sinh non có giới tính nam nhiều hơn nữ. Suốt thời thơ ấu, nguy cơ tử vong của trẻ sinh non tăng cao. Đối với những bé trai được sinh trong khoảng từ tuần thứ 22 đến tuần thứ 27 của thai kỳ thì tỉ lệ tử vong trong giai đoạn sớm của thời thơ ấu là 1.33% với nguy cơ tương đối là 5.3 (khoảng tin cậy 95%, 2.0 - 14.2) và 1.01% trong giai đoạn muộn với nguy cơ tương đối là 7.0 (khoảng tin cậy 95%, 2.3 - 22.0). Những bé gái được sinh ra trong khoảng tuần thứ 22 đến 27 của thai kỳ thì tỉ lệ tử vong trong giai đoạn sớm của thời thơ ấu là 1.71% với nguy cơ tương đối 9.7 (khoảng tin cậy 95%, 4.0 - 23.7). Trong nhóm này không có bé gái tử vong trong giai đoạn muộn.
Bé trai được sinh khoảng tuần thứ 28 đến 32 của thai kỳ thì tỉ lệ tử vong trong giai đoạn sớm và giai đoạn muộn của thời thơ ấu là 0.73% và 0.37% tương ứng với nguy cơ tương đối 2.5 (khoảng tin cậy 95%, 1.6 - 3.7) và 2.3 (khoảng tin cậy 95%, 1.3 - 4.1). Nguy cơ tử vong thời thơ ấu không tăng đáng kể đối với bé gái sinh ra trong khoảng tuần 28 đến 32.

Khả năng sinh sản bị giảm với những trẻ sinh non. Tỉ lệ sinh tuyệt đối là 13.9% ở nam và 25% ở nữ nếu sinh ra trong khoảng từ tuần thứ 22 đến tuần thứ 27 của thai kỳ, tương ứng với nguy cơ tương đối 0.24 (khoảng tin cậy 95%, 0.17 - 0.32) và 0.33 (khoảng tin cậy 95%, 0.26 - 0.42). Tỉ lệ sinh tuyệt đối là 38.6% ở nam và 59.2% ở nữ nếu sinh ra trong khoảng từ tuần thứ 28 đến tuần thứ 32 của thai kỳ, tương ứng với nguy cơ tương đối 0.7 (khoảng tin cậy 95%, 0.66 - 0.74) và 0.81 (khoảng tin cậy 95%, 0.78 - 0.85). Những bé gái sinh non có nguy cơ cao sẽ bị sinh non về .

Những tác giả của cuộc nghiên cứu viết rằng: “Trẻ sinh non ở Na Uy trong giai đoạn từ năm 1967-1988 có liên hệ đến sự giảm khả năng sinh sản và khả năng sống lâu dài. Những bé gái cũng như những bé trai được sinh ra cực kỳ sớm hay rất sớm thường có nguy cơ tương đối (RRs) bị tử vong cao trong thời thơ ấu”.

Hạn chế của cuộc nghiên cứu này gồm sử dụng cùng một nhóm sinh, những sai biệt vốn có trong ước đoán lâm sàng ở tuổi thai nghén, siêu âm không được sử dụng phổ biến trong khoảng thời gian 1967 và 1988, sự không liên tục trong nghiên cứu, số mẫu nhỏ trong các phân nhóm …

Những tác giả của cuộc nghiên cứu này phát biểu rằng: “… những nghiên cứu sâu hơn sẽ chỉ ra việc cải thiện trong chăm sóc sản khoa và sinh non có ảnh hưởng đến năng lực tồn tại cũng như sinh sản và chất lượng lâu dài trong cuộc sống hay không … nghiên cứu tiếp theo sẽ nhắm vào việc làm sáng tỏ những nguyên nhân và phương thức chữa trị tốt hơn có tính chất quyết định trong việc phòng ngừa  sinh non một cách hữu hiệu”.

Những tác giả của cuộc nghiên cứu này đã tiết lộ rằng không có bất kỳ một mối tương quan gì với tình hình tài chính.

Tiến sĩ y khoa Melissa M. Adams, cao học y tế cộng đồng, đến từ Research Triangle Institute ở Atlanta, Georgia và bác sĩ Wanda D. Barfield, cao học y tế cộng đồng, đến từ trung tâm Hiệp chủng quốc Hoa kỳ trong việc kiểm soát và phòng chống bệnh tật tại Atlanta, Georgia, lưu ý rằng mặc dù độ tin cậy cao của cuộc nghiên cứu này, nhưng những phát hiện này cần hiểu theo một cách nào đó thật cẩn trọng. Họ viết rằng “Thời đại hiện nay, những nhà lâm sàng có thể tăng cường hỗ trợ cho những gia đình có trẻ sinh non tháng. Bởi vì nguy cơ trong đời sống của những người có sức khỏe kém sẽ tăng lên đối với những cá nhân sinh non, cha mẹ nên thông báo cho các bác sĩ lâm sàng biết về tiền sử sinh non của họ. Thông tin này có thể giúp ích cho các bác sĩ lâm sàng trong việc phát hiện và chăm sóc tích cực các trường hợp từ lúc mới sinh đến về sau.

Medscape.

Từ khóa:
Các tin khác cùng chuyên mục:
Dị ứng thức ăn - Ngày đăng: 10-09-2008
Tính an toàn của Vaccin ngừa HPV - Ngày đăng: 10-09-2008
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK