Imatinib (Glivec, Gleevac, Novartis) đã tạo ra một cuộc cách mạng trong điều trị bệnh bạch cầu mạn dòng tủy - một loại ung thư máu – bằng cách biến một căn bệnh chết người với thời gian sống chỉ từ 6 đến 7 năm trở thành 1 bệnh mạn tính. Thuốc đã được sử dụng rộng rãi trên thị trường khoảng 10 năm (khoảng 250.000 bệnh nhân-năm) nhưng có rất ít dữ liệu về tác động của thuốc trên thai kỳ.
Hướng dẫn sử dụng thuốc có khuyến cáo phụ nữ nên tránh mang thai và lời khuyên này chỉ được đưa ra dựa trên những kết quả nghiên cứu trên động vật cùng với những lo ngại về vấn đề an toàn chung xung quanh việc sử dụng bất kỳ loại thuốc nào trong thai kỳ. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu tổng quan được báo cáo vào ngày 5/3/2008 trên First Edition issue of Blood, những phụ nữ đang sử dụng các loại thuốc imatinib nên tránh mang thai trong một thời gian do thuốc có thể làm tăng nguy cơ bị dị tật thai nhi nghiêm trọng.
Nghiên cứu được tiến hành bởi Seonaid Pye, MD, các cộng sự của trường Imperial College, London, Anh kết hợp với các nhà nghiên cứu ở Đại học Texas M.D. Anderson Cancer Center ở Houston và 2 nhà nghiên cứu ở Novartis. Dân số ban đầu là 180 phụ nữ có phơi nhiễm với imatinib trong khi mang thai, các nhà khoa học phân tích được kết quả thai kỳ của 125 người (69%).
• 63 phụ nữ (50%) sinh con bình thường khỏe mạnh
• 35 phụ nữ (28%) được chấm dứt thai kỳ có chọn lọc, và 3 trong số các phụ nữ này được xác định là có thai nhi dị tật. “Tỉ lệ cao của việc chấm dứt thai kỳ do đa số các thai kỳ này nằm ngoài dự tính”, các nhà nghiên cứu viết.
• 18 thai kỳ khác (14,4%) bị sẩy thai. Tỷ lệ sẩy thai này nằm trong giới hạn bình thường của dân số chung, mặc dù kết quả có thể sai lệch do thiếu dữ liệu của 55 trường hợp bị mất dấu.
• 9 trường hợp (có 1 trẻ chưa sinh) bị dị tật bẩm sinh: 3 trẻ có dị tật tương đối nhẹ (2 trường hợp có lỗ tiểu đóng thấp và 1 trường hợp hẹp môn vị), 1 trẻ bị đa dị tật phức tạp (não úng thủy, thiểu sản đại não và dị tật tim) đã chết sau sinh, 1 trẻ có thóp bị đóng sớm (trường hợp này, imatinib đã được ngưng dùng sau vài tuần đầu tiên của thai kỳ), trẻ chưa sinh thì bị thoát vị màng não, 3 trẻ bị dị tật phức tạp và các dị tật giống nhau một cách đáng chú ý (1 trẻ có giảm sản phổi, thoát vị rốn, có 2 thận trái, không có thận phải, tật nửa đốt sống và bất thường vai phải; 1 có thoát vị rốn, bất sản thận phải và tật nửa đốt sống; và trẻ thứ ba cũng có thoát vị rốn nhẹ và vẹo cột sống).
Các bất thường của xương (đã từng được quan sát thấy trong các nghiên cứu trên các loài gặm nhấm) có tỷ lệ cao hơn tỷ lệ của dân số chung và đặc biệt có liên quan với các dị tật trên, bao gồm tật lòi não, thoát vị não và các dị dạng của xương sọ. Điểm chú ý là những trẻ có thoát vị rốn đều có sự kết hợp các dị tật rất giống nhau và khá phức tạp mà hiếm khi cùng xảy ra một cách tình cờ được, do vậy cần phải nghĩ đến nguyên nhân là do imatinib gây ra.
Michael Deininger, MD, PhD (Oregon Health and Science University, Portland) cho rằng đây là một tập hợp dữ liệu rất lớn từ trước đến nay về kết quả sinh con khi dùng imatinib, do đó, bài tổng quan này rất có giá trị trên lâm sàng. Các nhà nghiên cứu khuyến cáo rằng những phụ nữ đang sử dụng imatinib nên tránh thai, nếu muốn có thai thì nên ngưng thuốc ít nhất vài tuần trước khi lập kế hoạch có thai. Tuy nhiên, có một số nguy cơ trong việc kiểm soát bệnh bạch cầu mạn dòng tủy nếu không dùng thuốc, vì vậy cần phải suy tính kỹ trước khi quyết định ngưng thuốc.
Theo Medscape.
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...