Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 26-08-2025 10:16pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CN. Trần Thị Hoa Phượng – IVF Tâm Anh

1. Giới thiệu
Thụ tinh trong ống nghiệm với việc tiếp nhận noãn từ bạn đời (reception of oocytes from partner - ROPA) là một kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology - ART) ngày càng được cộng đồng LGBTQ+ (lesbian, gay, bisexual, transgender and queer) sử dụng, đặc biệt là các cặp đôi đồng tính nữ. Sự gia tăng này thách thức các chuẩn mực xã hội truyền thống và thúc đẩy sự hòa nhập. Trước đây, xã hội thường định nghĩa gia đình chuẩn mực là cặp vợ chồng khác giới có con qua quan hệ tình dục, coi trọng mối liên kết sinh học giữa cha và mẹ. Các gia đình không tuân theo chuẩn mực này thường bị kỳ thị và phân biệt đối xử. Trong bối cảnh ROPA, điều cốt yếu là phải hiểu sự phân biệt giữa vai trò làm mẹ về mặt di truyền và vai trò làm mẹ về mặt sinh học. Vai trò làm mẹ về mặt di truyền liên quan đến việc cung cấp vật liệu di truyền, cụ thể là thông qua noãn, cho đứa trẻ. Ngược lại, vai trò làm mẹ về mặt sinh học đề cập đến hành động mang thai và sinh con. Mục đích chính của ROPA là cho phép cả hai người phụ nữ trong một cặp đôi đồng tính nữ cùng có kết nối sinh học với con của họ. Một đối tác cung cấp noãn, do đó có kết nối di truyền, trong khi đối tác còn lại mang thai và sinh con, do đó có kết nối sinh học/sinh lý.
Nghiên cứu Aktoz và cộng sự (2024) đã tiến hành tổng quan hệ thống y văn và phân tích SWOT (Điểm mạnh, Điểm yếu, Cơ hội, Thách thức) về ROPA để cung cấp dữ liệu mới nhất, nhằm hiểu rõ những lợi thế và thách thức của phương pháp này từ đó tư vấn tốt hơn cho số lượng ngày càng tăng các cặp đôi đồng tính nữ tìm đến các phòng khám hỗ trợ sinh sản.
2. Vật liệu và Phương pháp
Tổng quan hệ thống tài liệu được thực hiện theo hướng dẫn của PRISMA (Preferred Reporting Items for Systematic Reviews and Meta-analyses). Phương pháp PRISMA là một phương pháp nghiên cứu khoa học được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu tổng quan và phân tích dữ liệu có tính chất định tính sau đó thực hiện phân tích SWOT với các bài báo đủ điều kiện. Các tài liệu về ROPA ở các cặp đồng tính nữ được xuất bản từ năm 2000 đến 2023 đã được xem xét kỹ lưỡng. Các cơ sở dữ liệu PubMed, ClinicalTrials.gov, Cochrane Library và Web of Science đã được sử dụng để tìm kiếm các từ khóa liên quan. Các thuật ngữ Medical Subject Headings (MESH) như "reception of oocytes from partner", "reciprocal IVF", "intrapartner oocyte donation", "shared motherhood", "shared IVF", "lesbian gamete donation", "non-anonymous oocyte donation" và "oocyte sharing" đã được sử dụng. Hai nhà nghiên cứu độc lập đã sàng lọc tiêu đề, từ khóa và tóm tắt để tìm các chỉ số liên quan, sau đó các tác giả khác đã xem xét các tóm tắt được chọn. Các bản thảo đã được đưa vào và tất cả các nghiên cứu được xác định sau đó đã trải qua sàng lọc toàn văn lần thứ hai để tìm các mục đủ điều kiện. Tổng cộng có 122 bản ghi được xác định từ tìm kiếm điện tử. Sau khi loại bỏ các bản trùng lặp, sàng lọc toàn văn, 16 bài báo đã được đưa vào phân tích SWOT. Các nghiên cứu được phân loại là có nguy cơ sai lệch cao nếu điểm số của chúng ≤49%; nguy cơ sai lệch trung bình nếu điểm số 50–69%; và nguy cơ sai lệch thấp nếu điểm số ≥70%.
3. Kết quả
Trong số 16 bài báo được đưa vào phân tích SWOT, chỉ có năm nghiên cứu cung cấp thông tin lâm sàng về các cặp đôi đã sử dụng ROPA để thụ thai. Bốn trong số này là nghiên cứu hồi cứu (Bodri et al., 2018; Marina et al., 2010; Matorras et al., 2023; Yeshua et al., 2015) và một là nghiên cứu đoàn hệ (Núnẽz et al., 2021). Về đánh giá chất lượng, ba nghiên cứu (Núnẽz et al., 2021; Matorras et al., 2023; Bodri et al., 2018) được đánh giá là có nguy cơ sai lệch thấp (điểm lần lượt là 90,9%, 100%, 100%), trong khi nghiên cứu của Marina et al. (2010) có nguy cơ sai lệch cao (37,5%), và Yeshua et al. (2015) có nguy cơ sai lệch thấp (87,5%).
Các kết quả định lượng từ năm nghiên cứu này như sau:

  • Nghiên cứu của Marina et al. (2010): gồm 14 cặp đôi. Tuổi trung bình của người hiến noãn là 35,1 tuổi (dao động 25 – 42), người nhận noãn là 34,6 tuổi (dao động 25 – 41). Trong tổng số 13 phôi được chuyển, có 6 trường hợp thai lâm sàng, 2 sẩy thai, 3 trường hợp thai diễn tiến và 1 trường hợp sinh sống.

  • Yeshua et al. (2015): 21 cặp đôi đồng tính nữ đã trải qua 36 chu kỳ ROPA. Tuổi của người hiến noãn từ 34 đến 43 tuổi, và người nhận noãn từ 35 đến 45 tuổi. Tổng cộng có 87 phôi được chuyển trong 36 chu kỳ, với trung bình 2,4 phôi mỗi chu kỳ. Kết quả ghi nhận 16 trường hợp thai lâm sàng, 5 thai sinh hoá, 4 sẩy thai, 5 thai diễn tiến và 9 ca sinh sống.

  • Bodri et al. (2018): là nghiên cứu hồi cứu lớn nhất, gồm 121 cặp đôi với 141 chu kỳ kích thích buồng trứng theo ROPA. Tuổi trung bình của người hiến và người nhận tương đồng (khoảng 32–33 tuổi). Kết quả ghi nhận 89 trường hợp thai lâm sàng (52%), 73 thai diễn tiến (42%) và 72 ca sinh sống được xác nhận. Trong số đó, có 10 trường hợp mang đa thai (14%), 12 trường hợp sinh non (từ tuần 34 đến 36) và 10 trẻ sơ sinh nhẹ cân.

  • Núnẽz et al. (2021): Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu đối sánh 180 cặp đôi (60 ROPA và 120 IVF/ICSI tự thân). Không có sự khác biệt thống kê về BMI giữa các nhóm ROPA. Nghiên cứu ghi nhận 43 trường hợp thai lâm sàng, 37 trường hợp ca sinh sống và 42 trường hợp thai diễn tiến trong nhóm ROPA. Đặc biệt, kết quả sinh sản tốt hơn đáng kể ở nhóm ROPA so với nhóm IVF/ICSI tự thân về tỷ lệ thai sinh hoá (70,0% so với 47,5%), tỷ lệ thai lâm sàng (60,0% so với 40,0%), tỷ lệ thai diễn tiến (60,0% so với 36,7%) và tỷ lệ sinh sống (57,1% so với 29,8%).

  • Matorras et al. (2023): So sánh ROPA (660 chu kỳ, 299 trường hợp mang thai) với IUI sử dụng tinh trùng hiến tặng (4349 chu kỳ, 949 trường hợp mang thai). Bệnh nhân ROPA có tuổi cao hơn một chút (trung vị 36,4 so với 33,5 tuổi). Tỷ lệ mang thai ở nhóm ROPA cao hơn đáng kể (45,3% so với 21,8%; P<0,001). Tỷ lệ sẩy thai tương tự, nhưng tỷ lệ sinh sống cao hơn ở ROPA (64,5% so với 58,3%). Trong các trường hợp mang thai đôi, có tỷ lệ rối loạn tăng huyết áp thai kỳ cao hơn đáng kể ở nhóm ROPA.

4. Bàn luận
ROPA mang lại cơ hội để cả hai đối tác đồng tính nữ cùng tham gia vào vai trò làm mẹ: một người hiến noãn tạo liên kết di truyền, người kia mang thai tạo liên kết sinh học, nhờ đó gia tăng cảm giác bình đẳng, được công nhận xã hội và giảm bớt lo lắng về quan hệ huyết thống. Phương pháp này loại bỏ nhu cầu tìm người hiến noãn xa lạ, đồng thời các nghiên cứu cho thấy kết quả sinh sản tương đương hoặc vượt trội so với IVF/ICSI tự thân, với tỷ lệ mang thai sinh hóa 70%, thai lâm sàng 60%, mang thai diễn tiến 60% và sinh sống 57,1%; thêm vào đó, tỷ lệ sinh sống tích lũy trên mỗi người nhận đạt khoảng 60%. ROPA đặc biệt phù hợp khi một người không có tử cung bẩm sinh hoặc không muốn mang thai vì lý do tâm lý, trong khi người kia mong muốn được trải nghiệm quá trình mang thai. Tuy nhiên, thách thức lớn của ROPA là chi phí cao, thiếu dữ liệu kinh tế và tranh cãi về giới hạn tuổi hiến noãn (thường 35 tuổi, thấp hơn so với hiến noãn dị tính). Ngoài ra, phương pháp này có thể làm tăng nguy cơ biến chứng thai kỳ như tăng huyết áp, tiểu đường thai kỳ, sinh non, sinh mổ và cân nặng khi sinh thấp, đặc biệt trong đa thai, đồng thời còn tồn tại tranh luận về đạo đức, quyền làm cha mẹ, sự thiếu dữ liệu an toàn dài hạn và áp lực tâm lý – xã hội cho người mẹ hiến noãn. Dẫu vậy, các nghiên cứu cho thấy mối quan hệ mẹ – con vẫn bền chặt, bất kể có hay không sự liên kết sinh học.
5. Kết luận
ROPA là một lựa chọn sinh sản thành công cho các cặp đôi nữ đồng tính, đặc biệt hữu ích khi một người không thể hoặc không muốn mang thai còn người kia mong muốn trải nghiệm quá trình này. Điểm khác biệt của ROPA là khả năng tạo ra mối liên hệ sinh học với cả hai đối tác, đồng thời giải quyết các vấn đề về hiến tặng noãn và tính ẩn danh của người hiến. Tuy vậy, phương pháp này cũng đi kèm những hạn chế đáng cân nhắc, bao gồm chi phí cao, gánh nặng thể chất – cảm xúc từ điều trị sinh sản, cũng như các thách thức pháp lý, xã hội và thực tiễn. Hơn nữa, dữ liệu về độ an toàn của ROPA còn hạn chế, trong khi các nghiên cứu gần đây cho thấy nguy cơ gia tăng biến chứng thai kỳ và chu sinh, đặc biệt là rối loạn tăng huyết áp, có thể liên quan đến ART và hiến noãn. Do đó, cần thêm các nghiên cứu dài hạn để làm rõ hồ sơ an toàn, đánh giá sức khỏe trẻ em sinh ra từ ART và cung cấp thông tin đầy đủ hơn cho các cặp đôi đồng tính nữ, giúp họ đưa ra lựa chọn sinh sản tối ưu và toàn diện nhất.

Aktoz F, Loreti S, Darici E, Leunens L, Tournaye H, De Munck N, Blockeel C, Roelens C, Mackens S. IVF with reception of oocytes from partner in lesbian couples: a systematic review and SWOT analysis. Reprod Biomed Online. 2024 Jan;48(1):103411. doi: 10.1016/j.rbmo.2023.103411. Epub 2023 Sep 12. PMID: 37925228.


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

Năm 2020

Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...

Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, chiều thứ bảy 9 . 8 . 2025 (13:00 - 16:30)

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách “Bài giảng Thực hành Sản khoa” do các giảng viên Bộ ...

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK