Tin tức
on Friday 16-08-2024 2:49pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Quảng Thị Phước Tín - IVFMD SIH - Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) ảnh hưởng 5-10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, gây đau vùng chậu, chảy máu kinh nguyệt và vô sinh. Có nhiều cơ chế gây vô sinh liên quan đến LNMTC bao gồm môi trường NMTC bất lợi, chất lượng noãn giảm, khiếm khuyết làm tổ và tắc nghẽn do dính tử cung. LNMTC ở buồng trứng và phúc mạc có liên quan đến các dấu hiệu phân tử trong dịch phúc mạc đặc trưng của tình trạng viêm, liên quan đến việc giảm số lượng và chất lượng noãn.
Liệu LNMTC có làm giảm tỷ lệ làm tổ hay không vẫn là vấn đề gây tranh cãi. Những phát hiện ban đầu về bất thường NMTC ở BN bị LNMTC không phải lúc nào cũng được lặp lại trong các nghiên cứu tiếp theo. Do đó, phân tích vi môi trường trong tử cung ở những BN bị LNMTC vẫn là một lĩnh vực nghiên cứu đang được quan tâm.
Những bất thường trong môi trường miễn dịch NMTC đã được báo cáo trên cả BN LNMTC và vô sinh. Trong số tất cả các tế bào miễn dịch, người ta thường tập trung vào các tế bào tiêu diệt tự nhiên ở tử cung (uterine natural killer - uNK), đây là quần thể bạch cầu dồi dào và có chức năng quan trọng trong NMTC, chiếm 30-40% bạch cầu trong giai đoạn tăng sinh và lên đến 70% trong giai đoạn chế tiết. Tế bào uNK có các chức năng chuyên biệt liên quan đến cân bằng mô tử cung, làm tổ và duy trì thai kỳ (tái tạo động mạch, loại bỏ tế bào lão hóa và dung nạp miễn dịch của thai nhi và mẹ).
Các bệnh lý liên quan đến LNMTC và vô sinh đều có liên quan đến các bất thường đa yếu tố ở NMTC, phúc mạc và cơ thể. Để đánh giá cụ thể các yếu tố NMTC tác động trên nhóm BN vô sinh, nhóm tác giả đã nghiên cứu 48 loại cytokine, chemokine và các yếu tố tăng trưởng khác nhau trong các mẫu sinh thiết NMTC, để làm sáng tỏ liệu những bất thường về miễn dịch có liên quan đến LNMTC ở nhóm BN này hay không.
BN tham gia nghiên cứu được nội soi ổ bụng điều trị vô sinh từ tháng 9/2013 đến tháng 11/2014. Tiêu chí loại trừ: chu kỳ kinh nguyệt không đều, có sử dụng liệu pháp hormone trong 3 tháng trước đó hoặc các bệnh lý khác trong ổ bụng. Sau khi thu thập, các mẫu đã được làm mù và phân tích. Mẫu sinh thiết sau rã đông sẽ được đánh giá về biểu hiện máu, chất nhầy và các đặc điểm đại thể, có 17 mẫu bị loại do chất lượng kém. Các mẫu sinh thiết đủ tiêu chuẩn được ly giải, ly tâm và phân tích dịch nổi để định lượng nồng độ cytokine.
Một số kết quả ghi nhận được
Các mẫu sinh thiết NMTC từ 103 BN, trong đó có 89 mẫu mô có chất lượng đại thể đủ điều kiện được tiến hành xét nghiệm phát hiện nhiều cytokines cùng lúc. Sau khi chọn dữ liệu xét nghiệm miễn dịch và loại trừ các mẫu có tỷ lệ phát hiện thấp và nồng độ chất phân tích và/hoặc DNA mô cực cao hoặc cực thấp, có 74 mẫu được đưa vào phân tích.
BN được chia thành 2 nhóm theo tình trạng có hoặc không có LNMTC và phân theo mức độ nghiêm trọng của bệnh. Có 32 BN không bị LNMTC và 42 BN LNMTC khi đánh giá hình thái bên ngoài. LNMTC ở mức độ từ rất nhẹ đến nhẹ ở 31 trường hợp (74%) và từ trung bình đến nặng ở 11 trường hợp (26%). Tiền sử sinh sản của BN có và không có LNMTC là tương tự nhau, và sự phân bố BN ở giai đoạn tăng sinh (41%) và giai đoạn chế tiết (59%) cũng tương tự nhau ở các nhóm.
Có 22 BN (30%) có thai tự nhiên trong 6 tháng đầu sau phẫu thuật. Thời gian vô sinh trung bình trước phẫu thuật là 33 tháng. Không có mối tương quan giữa tỷ lệ thai và thời gian vô sinh. Trong số những BN bị LNMTC, có 38% BN đã có thai, trong khi ở nhóm không bị LNMTC, tỷ lệ thai là 28%.
Kết quả phân tích cho thấy trong 44 yếu tố, có 15 yếu tố biểu hiện mức độ khác nhau đáng kể giữa giai đoạn tăng sinh và giai đoạn chế tiết của chu kỳ kinh nguyệt (14 yếu tố biểu hiện mức cao nhất trong giai đoạn tăng sinh và protein gây viêm tiết từ đại thực bào 1α biểu hiện mức cao nhất trong giai đoạn chế tiết).
Nghiên cứu cũng so sánh mức mẫu mô (tissue level) của từng yếu tố theo từng pha ở những BN có và không có LNMTC. Trong pha chế tiết, mức interleukin IL-15, IL-7 và protein (IP)-10 do interferon γ gây ra thấp hơn ở những BN bị LNMTC, nhưng không có khác biệt đáng kể sau nhiều lần so sánh.
Khi phân tích các mô NMTC ở pha chế tiết trên BN LNMTC và không LNMTC, quan sát thấy có sự liên kết giữa các yếu tố IL-15, IP-10, MCP-1, IL-16 và IL-18. Sự kết hợp này có thể gợi ý về sự khiếm khuyết tế bào NK ở tử cung. Không tìm thấy mối tương quan đáng kể giữa các cytokine NMTC và kết cục sinh sản.
Kết luận
Phân tích đa biến nồng độ của 44 cytokine, chemokine và các yếu tố tăng trưởng trong mẫu sinh thiết NMTC từ 74 BN vô sinh, cho thấy sự kết hợp của các phân tử liên quan đến sự hiện diện của LNMTC, trong khi phân tích đơn biến của các yếu tố riêng lẻ không cho thấy sự khác biệt đáng kể nào. Kết quả của nghiên cứu này cung cấp thêm động lực để phân tích vai trò của mạng lưới tế bào uNK NMTC trong LNMTC. Việc đánh giá số lượng tế bào uNK trong NMTC là một thách thức, vì số lượng tăng ít nhất gấp 3 lần vào ngày thứ 22 đến ngày thứ 25 của chu kỳ, các tế bào có thể xuất hiện ở dạng tập hợp hoặc cụm và sự thay đổi giữa các BN thường rất lớn.
Hạn chế của nghiên cứu là cỡ mẫu nhỏ. Tuy nhiên, các mẫu này tạo ra một bức tranh nhất quán về sự thiếu hụt kết hợp của IP-10, MCP-1 và IL-18 ở những BN bị LNMTC so với nhóm chứng, chúng là các yếu tố điều hòa quan trọng để phân biệt giữa các nhóm BN này.
Kết quả của nghiên cứu này cung cấp thêm động lực cho các nghiên cứu bổ sung về chức năng tế bào uNK ở BN LNMTC, và nhấn mạnh việc xác định các phân nhóm BN có đặc điểm tương tự, như đã được đề xuất trước đây đối với các quan sát khác về rối loạn chức năng miễn dịch ở quần thể bệnh nhân vô sinh.
Nguồn: JØRGENSEN, Hilde, et al. Endometrial cytokines in patients with and without endometriosis evaluated for infertility. Fertility and sterility, 2022, 117.3: 629-640.
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) ảnh hưởng 5-10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, gây đau vùng chậu, chảy máu kinh nguyệt và vô sinh. Có nhiều cơ chế gây vô sinh liên quan đến LNMTC bao gồm môi trường NMTC bất lợi, chất lượng noãn giảm, khiếm khuyết làm tổ và tắc nghẽn do dính tử cung. LNMTC ở buồng trứng và phúc mạc có liên quan đến các dấu hiệu phân tử trong dịch phúc mạc đặc trưng của tình trạng viêm, liên quan đến việc giảm số lượng và chất lượng noãn.
Liệu LNMTC có làm giảm tỷ lệ làm tổ hay không vẫn là vấn đề gây tranh cãi. Những phát hiện ban đầu về bất thường NMTC ở BN bị LNMTC không phải lúc nào cũng được lặp lại trong các nghiên cứu tiếp theo. Do đó, phân tích vi môi trường trong tử cung ở những BN bị LNMTC vẫn là một lĩnh vực nghiên cứu đang được quan tâm.
Những bất thường trong môi trường miễn dịch NMTC đã được báo cáo trên cả BN LNMTC và vô sinh. Trong số tất cả các tế bào miễn dịch, người ta thường tập trung vào các tế bào tiêu diệt tự nhiên ở tử cung (uterine natural killer - uNK), đây là quần thể bạch cầu dồi dào và có chức năng quan trọng trong NMTC, chiếm 30-40% bạch cầu trong giai đoạn tăng sinh và lên đến 70% trong giai đoạn chế tiết. Tế bào uNK có các chức năng chuyên biệt liên quan đến cân bằng mô tử cung, làm tổ và duy trì thai kỳ (tái tạo động mạch, loại bỏ tế bào lão hóa và dung nạp miễn dịch của thai nhi và mẹ).
Các bệnh lý liên quan đến LNMTC và vô sinh đều có liên quan đến các bất thường đa yếu tố ở NMTC, phúc mạc và cơ thể. Để đánh giá cụ thể các yếu tố NMTC tác động trên nhóm BN vô sinh, nhóm tác giả đã nghiên cứu 48 loại cytokine, chemokine và các yếu tố tăng trưởng khác nhau trong các mẫu sinh thiết NMTC, để làm sáng tỏ liệu những bất thường về miễn dịch có liên quan đến LNMTC ở nhóm BN này hay không.
BN tham gia nghiên cứu được nội soi ổ bụng điều trị vô sinh từ tháng 9/2013 đến tháng 11/2014. Tiêu chí loại trừ: chu kỳ kinh nguyệt không đều, có sử dụng liệu pháp hormone trong 3 tháng trước đó hoặc các bệnh lý khác trong ổ bụng. Sau khi thu thập, các mẫu đã được làm mù và phân tích. Mẫu sinh thiết sau rã đông sẽ được đánh giá về biểu hiện máu, chất nhầy và các đặc điểm đại thể, có 17 mẫu bị loại do chất lượng kém. Các mẫu sinh thiết đủ tiêu chuẩn được ly giải, ly tâm và phân tích dịch nổi để định lượng nồng độ cytokine.
Một số kết quả ghi nhận được
Các mẫu sinh thiết NMTC từ 103 BN, trong đó có 89 mẫu mô có chất lượng đại thể đủ điều kiện được tiến hành xét nghiệm phát hiện nhiều cytokines cùng lúc. Sau khi chọn dữ liệu xét nghiệm miễn dịch và loại trừ các mẫu có tỷ lệ phát hiện thấp và nồng độ chất phân tích và/hoặc DNA mô cực cao hoặc cực thấp, có 74 mẫu được đưa vào phân tích.
BN được chia thành 2 nhóm theo tình trạng có hoặc không có LNMTC và phân theo mức độ nghiêm trọng của bệnh. Có 32 BN không bị LNMTC và 42 BN LNMTC khi đánh giá hình thái bên ngoài. LNMTC ở mức độ từ rất nhẹ đến nhẹ ở 31 trường hợp (74%) và từ trung bình đến nặng ở 11 trường hợp (26%). Tiền sử sinh sản của BN có và không có LNMTC là tương tự nhau, và sự phân bố BN ở giai đoạn tăng sinh (41%) và giai đoạn chế tiết (59%) cũng tương tự nhau ở các nhóm.
Có 22 BN (30%) có thai tự nhiên trong 6 tháng đầu sau phẫu thuật. Thời gian vô sinh trung bình trước phẫu thuật là 33 tháng. Không có mối tương quan giữa tỷ lệ thai và thời gian vô sinh. Trong số những BN bị LNMTC, có 38% BN đã có thai, trong khi ở nhóm không bị LNMTC, tỷ lệ thai là 28%.
Kết quả phân tích cho thấy trong 44 yếu tố, có 15 yếu tố biểu hiện mức độ khác nhau đáng kể giữa giai đoạn tăng sinh và giai đoạn chế tiết của chu kỳ kinh nguyệt (14 yếu tố biểu hiện mức cao nhất trong giai đoạn tăng sinh và protein gây viêm tiết từ đại thực bào 1α biểu hiện mức cao nhất trong giai đoạn chế tiết).
Nghiên cứu cũng so sánh mức mẫu mô (tissue level) của từng yếu tố theo từng pha ở những BN có và không có LNMTC. Trong pha chế tiết, mức interleukin IL-15, IL-7 và protein (IP)-10 do interferon γ gây ra thấp hơn ở những BN bị LNMTC, nhưng không có khác biệt đáng kể sau nhiều lần so sánh.
Khi phân tích các mô NMTC ở pha chế tiết trên BN LNMTC và không LNMTC, quan sát thấy có sự liên kết giữa các yếu tố IL-15, IP-10, MCP-1, IL-16 và IL-18. Sự kết hợp này có thể gợi ý về sự khiếm khuyết tế bào NK ở tử cung. Không tìm thấy mối tương quan đáng kể giữa các cytokine NMTC và kết cục sinh sản.
Kết luận
Phân tích đa biến nồng độ của 44 cytokine, chemokine và các yếu tố tăng trưởng trong mẫu sinh thiết NMTC từ 74 BN vô sinh, cho thấy sự kết hợp của các phân tử liên quan đến sự hiện diện của LNMTC, trong khi phân tích đơn biến của các yếu tố riêng lẻ không cho thấy sự khác biệt đáng kể nào. Kết quả của nghiên cứu này cung cấp thêm động lực để phân tích vai trò của mạng lưới tế bào uNK NMTC trong LNMTC. Việc đánh giá số lượng tế bào uNK trong NMTC là một thách thức, vì số lượng tăng ít nhất gấp 3 lần vào ngày thứ 22 đến ngày thứ 25 của chu kỳ, các tế bào có thể xuất hiện ở dạng tập hợp hoặc cụm và sự thay đổi giữa các BN thường rất lớn.
Hạn chế của nghiên cứu là cỡ mẫu nhỏ. Tuy nhiên, các mẫu này tạo ra một bức tranh nhất quán về sự thiếu hụt kết hợp của IP-10, MCP-1 và IL-18 ở những BN bị LNMTC so với nhóm chứng, chúng là các yếu tố điều hòa quan trọng để phân biệt giữa các nhóm BN này.
Kết quả của nghiên cứu này cung cấp thêm động lực cho các nghiên cứu bổ sung về chức năng tế bào uNK ở BN LNMTC, và nhấn mạnh việc xác định các phân nhóm BN có đặc điểm tương tự, như đã được đề xuất trước đây đối với các quan sát khác về rối loạn chức năng miễn dịch ở quần thể bệnh nhân vô sinh.
Nguồn: JØRGENSEN, Hilde, et al. Endometrial cytokines in patients with and without endometriosis evaluated for infertility. Fertility and sterility, 2022, 117.3: 629-640.
Các tin khác cùng chuyên mục:
So sánh kết quả lâm sàng và kết quả chu sinh giữa chu kỳ tự nhiên và liệu pháp thay thế hormone của chuyển phôi đông lạnh ở bệnh nhân có kinh nguyệt đều: một phân tích so sánh điểm xu hướng - Ngày đăng: 16-08-2024
Tác động của gen Tcte1 trong chuỗi truyền năng lượng và quá trình sinh tinh ở nam giới - Ngày đăng: 15-08-2024
BlastAssist: một hệ thống học sâu để đo lường các đặc điểm có thể lý giải ở phôi người - Ngày đăng: 15-08-2024
Hệ thống điều hòa nhiệt độ ở phôi là yếu tố quyết định sự cân bằng nhiệt giai đoạn phôi tiền làm tổ - Ngày đăng: 14-08-2024
Tổng quan vai trò của trí tuệ nhân tạo trong vô sinh nam: đánh giá và điều trị - Ngày đăng: 14-08-2024
Tuổi mẹ tại thời điểm chuyển phôi sau đông lạnh noãn tự thân không liên quan đến tỷ lệ trẻ sinh sống - Ngày đăng: 13-08-2024
So sánh hiệu quả chuyển phôi tươi của hai phác đồ: kích thích buồng trứng kép và kích thích buồng trứng một chu kỳ - Ngày đăng: 13-08-2024
Báo cáo trường hợp trẻ sinh sống từ noãn trưởng thành thu nhận trên mẫu buồng trứng được cắt bỏ của bệnh nhân mắc ung thư biểu mô buồng trứng - Ngày đăng: 13-08-2024
Ảnh hưởng của thời gian kiêng xuất tinh đến kết quả thụ tinh và kết quả lâm sàng trong chu kỳ ICSI: một phân tích hồi cứu - Ngày đăng: 13-08-2024
Ảnh hưởng của thời gian kiêng xuất tinh lên các thông số tinh trùng: một phân tích tổng hợp các nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng - Ngày đăng: 13-08-2024
Ảnh hưởng của số lần rửa phôi đến kết quả sàng lọc di truyền tiền làm tổ không xâm lấn (niPGT) - Ngày đăng: 13-08-2024
Ti thể - mục tiêu điều trị tiềm năng trong hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 13-08-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK