Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 21-06-2025 2:24am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CVPH. Quảng Thị Phước Tín - IVFMD SIH - Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn

Trong các kỹ thuật thay thế ty thể (Mitochondrial replacement techniques – MRTs) thì DNA nhân từ noãn hoặc hợp tử sẽ được chuyển sang noãn hoặc hợp tử của người hiến đã loại bỏ nhân, nhằm ngăn ngừa di truyền các đột biến ty thể từ mẹ sang con. Hiện tại, hai kỹ thuật MRTs được pháp luật Anh và Úc cho phép áp dụng lâm sàng là chuyển thoi vô sắc (maternal spindle transfer - MST) và chuyển tiền nhân (pronuclear transfer - PNT) trong các trường hợp có nguy cơ cao mắc bệnh ty thể nghiêm trọng. Bên cạnh đó, MRTs còn được kỳ vọng áp dụng trong điều trị vô sinh, đặc biệt ở phụ nữ lớn tuổi có chất lượng noãn kém.
 
Tuy nhiên, ứng dụng MRTs trong điều trị vô sinh chưa được quan tâm đầy đủ trong các thảo luận đạo đức sinh học, chủ yếu vì chưa có bằng chứng hiệu quả rõ ràng. Nếu MRTs chứng minh được hiệu quả trong điều trị vô sinh, nhu cầu sử dụng có thể vượt xa mục tiêu ban đầu là phòng ngừa bệnh ty thể.
 
Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá liệu có lý do đạo đức nào để cấm thử nghiệm MRTs trong điều trị vô sinh khi kỹ thuật này được cho phép trong phòng bệnh ty thể. Nhóm tác giả so sánh hai ứng dụng MRTs (phòng bệnh ty thể và điều trị vô sinh) theo ba tiêu chí: mức độ bằng chứng khoa học, lợi ích tiềm năng và rủi ro.
Một số ý kiến cho rằng bằng chứng tiền lâm sàng của MRTs trong điều trị vô sinh còn hạn chế. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra vai trò thiết yếu của ty thể trong sinh sản như: cung cấp năng lượng cho trưởng thành noãn, thụ tinh, phát triển phôi và làm tổ, đặc biệt ở phụ nữ lớn tuổi (suy giảm chức năng ty thể, giảm chất lượng noãn, tăng bất thường nhiễm sắc thể) - đối tượng chính của vô sinh liên quan đến độ tuổi. MRTs, đặc biệt là MST giúp thay thế bào tương có dấu hiệu thoái hóa chức năng do tuổi tác bằng bào tương từ noãn được hiến khỏe mạnh, từ đó cải thiện khả năng tạo phôi và giúp nhiều phụ nữ vô sinh thụ thai và sinh con khỏe mạnh.

Ngoài ra, MST trong điều trị vô sinh đã được thử nghiệm lâm sàng tại Hy Lạp, kết quả cho thấy có 6 trẻ ra đời đều phát triển bình thường đến 24 tháng tuổi. Trong khi đó, chưa có dữ liệu tương tự ở người cho MRTs trong phòng bệnh ty thể. Như vậy, có đủ bằng chứng tiền lâm sàng và dữ liệu bước đầu ở người để chứng minh cho thử nghiệm MRTs trong điều trị vô sinh.
MRTs trong điều trị bệnh ty thể thường được truyền thông như liệu pháp cứu sống. Tuy nhiên, nhiều học giả lập luận rằng MRTs không thể được xem là biện pháp điều trị cho đứa trẻ tương lai, vì kỹ thuật này làm thay đổi tổ hợp giao tử - đồng nghĩa với việc tạo ra một cá thể khác biệt (vấn đề danh tính). Vì vậy nên xem xét gợi ý ở góc độ cha mẹ (về khả năng có con di truyền) và xã hội.

Một số ý kiến cho rằng MRTs nhằm phòng ngừa bệnh ty thể mang lại lợi ích lớn hơn cho cha mẹ so với MRTs điều trị vô sinh. Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp, những phụ nữ mang đột biến DNA ty thể (Mitochondrial DNA - mtDNA) sẽ không chọn sinh con tự nhiên nếu không có MRTs mà sẽ chọn xin noãn, nhận con nuôi hoặc không sinh con. Ngược lại, MRTs trong điều trị vô sinh có thể mang lại lợi ích tinh thần rất lớn cho các cặp vợ chồng thất bại IVF, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi vô sinh ảnh hưởng đến khoảng 1/6 người trong độ tuổi sinh sản – cao hơn nhiều so với tỷ lệ bệnh ty thể (~1/5000 ca sinh). Vì vậy, nếu giả định rằng các cặp vợ chồng không chọn sinh con theo cách tự nhiên, thì lợi ích mà MRTs mang lại trong cả hai ứng dụng: phòng bệnh ty thể và điều trị vô sinh là như nhau.

Một số lập luận cho rằng MRTs phòng bệnh ty thể rủi ro hơn MRTs điều trị vô sinh. Các rủi ro chung bao gồm: tổn thương do kích thích buồng trứng, thao tác vi phẫu, ảnh hưởng tâm lý ở trẻ do có ba nguồn gen, và sai lệch nhân–ty thể, các nguy cơ này đều giống nhau ở cả hai ứng dụng. Tuy nhiên, MRTs phòng bệnh ty thể có thêm một nguy cơ đáng kể là hiện tượng “carryover” – khi một phần nhỏ mtDNA lỗi vẫn bị chuyển sang noãn hiến và có thể nhân lên trong phôi, gây ra “reversal” - ty thể đột biến từ mẹ dần tăng lên và áp đảo ty thể của người hiến, dẫn đến sự đảo ngược về kiểu di truyền ty thể và dẫn đến tái phát bệnh, còn MRTs điều trị vô sinh không đối mặt với nguy cơ này. Do đó, MRTs cho điều trị vô sinh thực chất ít rủi ro hơn. Trong MRTs phòng bệnh ty thể, cha mẹ có thể sinh con vừa mắc bệnh ty thể vừa chịu tác dụng phụ của kỹ thuật, trong MRTs điều trị vô sinh dù có rủi ro kỹ thuật thì cha mẹ vẫn có được con ruột – điều mà họ không thể đạt được nếu không có MRTs. Nếu so sánh về ảnh hưởng có thể có thì MRTs trong điều trị bệnh ty thể gây hậu quả nặng hơn cho cha mẹ trong trường hợp xấu nhất.

Do đó, có ý kiến cho rằng nên ưu tiên áp dụng MRTs cho điều trị vô sinh trước, vì rủi ro thấp hơn và có thể giúp cải thiện kỹ thuật trước khi áp dụng trong phòng bệnh. Dù vậy, nguy cơ carryover không đủ bằng chứng để cấm áp dụng MRTs trong phòng bệnh ty thể vì so với sinh con tự nhiên, kỹ thuật này vẫn giúp giảm nguy cơ di truyền bệnh.

Kết luận:
Thông qua những phân tích trên, nhóm tác giả đưa ra kết luận rằng không có lý do đạo đức nào dựa trên bằng chứng, lợi ích hay rủi ro để cấm thử nghiệm MRTs trong điều trị vô sinh khi nó được cho phép sử dụng trong điều trị bệnh ty thể. Ngược lại, MRTs điều trị vô sinh có thể mang lại lợi ích lớn hơn và rủi ro thấp hơn. Do đó, các quy định pháp lý hiện hành cần được rà soát lại để đảm bảo sự nhất quán và công bằng về mặt đạo đức.

Nguồn: BRAUN, Esther. Mitochondrial replacement techniques for treating infertility. Journal of Medical Ethics, 2024.

 


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Tiền Hội nghị: Trung tâm Hội nghị Grand Saigon, thứ bảy ngày ...

Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK