Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 21-06-2025 1:43am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CNSH. Huỳnh Yến Vy – IVFMD Phú Nhuận – Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận

Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ hình thành phôi nang đóng vai trò quan trọng trong đánh giá hiệu quả điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Một số giả thuyết cho rằng bệnh nhân mang bất thường chuyển đoạn nhiễm sắc thể có thể tạo ra ít phôi nang sử dụng được hơn. Do đó, những trường hợp giảm tỷ lệ hình thành phôi nang sau chu kỳ IVF thất bại thường được chỉ định thực hiện xét nghiệm nhiễm sắc thể đồ (karyotyping) như một bước đánh giá nguyên nhân vô sinh. Tuy nhiên, xét nghiệm này có thể gây tốn kém, mất thời gian và dẫn đến trì hoãn trong các can thiệp tiếp theo. Nếu tỷ lệ tạo phôi nang ở người mang chuyển đoạn cân bằng tương đương với nhóm vô sinh không mang bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể, thì việc chỉ định xét nghiệm nhiễm sắc thể không nên dựa đơn thuần trên kết quả tạo phôi sau IVF. Trên cơ sở này, có cơ sở để giả định rằng người mang chuyển đoạn có thể có tỷ lệ phát triển phôi cũng như tỷ lệ làm tổ (SIR -  sustained implantation rate) thấp hơn. Hai loại tái sắp xếp nhiễm sắc thể thường gặp ở cha hoặc mẹ có liên quan đến kết quả IVF là chuyển đoạn tương hỗ và chuyển đoạn Robertsonian. Trong chuyển đoạn tương hỗ, vật liệu di truyền được trao đổi giữa hai nhiễm sắc thể không tương đồng mà không làm mất hay thêm vật chất di truyền tổng thể, dẫn đến kiểu hình bình thường. Tuy nhiên, hiện tượng phân ly bất thường trong giảm phân có thể tạo ra giao tử mang bất thường nhiễm sắc thể, làm tăng nguy cơ sảy thai liên tiếp (RPL) và các vấn đề về sinh sản. Ở nam giới, chuyển đoạn tương hỗ còn có thể liên quan đến bất thường tinh dịch đồ như thiểu tinh, yếu tinh. Chuyển đoạn Robertsonian, ảnh hưởng đến khoảng 1/1.000 người, liên quan đến sự hợp nhất tâm của hai nhiễm sắc thể đầu nhọn (acrocentric chromosomes), bao gồm các NST 13, 14, 15, 21 và 22. Trong đó, chuyển đoạn giữa NST 13 và 14 chiếm khoảng 75% các trường hợp Robertsonian và thường liên quan đến vô sinh nam hoặc RPL. Mặc dù các cá nhân mang chuyển đoạn cân bằng - dù là tương hỗ hay Robertsonian - thường có kiểu hình bình thường, khả năng sinh sản của họ vẫn có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Phôi mang chuyển đoạn không cân bằng có nguy cơ cao bị phân cắt bất thường, phát triển lệch pha và hình thành phôi nang bất thường, làm tăng tỷ lệ thất bại làm tổ và sảy thai sớm. Do đó, trong những trường hợp thất bại hình thành phôi nang, việc thực hiện xét nghiệm nhiễm sắc thể đồ có thể giúp xác định nguyên nhân tiềm ẩn liên quan đến bất thường di truyền ở cha hoặc mẹ.

Mục tiêu: So sánh số lượng phôi nang có thể sử dụng và tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR) giữa nhóm bệnh nhân chuyển đoạn cân bằng so với dân số đối chứng vô sinh. Ngoài ra, nghiên cứu tìm sự khác biệt về kết quả sinh sản đối với người mang gen chuyển vị ở nam giới so với nhóm đối chứng và người mang gen chuyển vị ở nữ giới so với nhóm đối chứng. Thêm vào đó, nghiên cứu đánh giá sự khác biệt giữa các loại chuyển vị cân bằng (chuyển đoạn Robertsonian và chuyển đoạn tương hỗ - reciprocal translocation).

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu 1.291 chu kỳ từ 993 bệnh nhân từ tháng 1 năm 2012 đến tháng 8 năm 2022, bao gồm tất cả các chu kỳ của những bệnh nhân mang gen chuyển đoạn cân bằng đang trải qua IVF với xét nghiệm di truyền trước khi làm tổ để phát hiện các bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể (PGT-SR) so sánh với các chu kỳ một nhóm đối chứng vô sinh đang trải qua IVF với PGT để phát hiện lệch bội (PGT-A).

Tiêu chuẩn loại: Những chu kì sử dụng giao tử hiến tặng và những chu kì có tổng số tinh trùng di động <1 triệu tinh trùng/mL.

Tất cả bệnh nhân được chia thành 2 nhóm:

  • Nhóm 1: 255 bệnh nhân là người mang gen chuyển đoạn (trong đó có 30 bệnh nhân (11,5%) là người mang gen chuyển đoạn Robertsonian và 231 bệnh nhân (88,5%) là người mang gen chuyển đoạn tương hỗ.

  • Nhóm đối chứng: 738 bệnh nhân

Kết quả: Trong tất cả các gen chuyển đoạn, có 142 bệnh nhân nữ và 115 bệnh nhân là nam, trong khi hai chu kỳ có cả gen chuyển đoạn từ cả hai.

Kết quả phôi học:

  • Không có sự khác biệt về mặt thống kê trong số lượng noãn (14,6 so với 19,0, P=0,03), noãn II (11,3 so với 14,9, P¼.5) và hợp tử (10,9 so với 13,7, P=0,9) giữa hai nhóm.

  • Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ tạo phôi nang trung bình giữa người mang gen chuyển đoạn và đối chứng (59,5% so với 62,1%, P= 0,01).

  • Bệnh nhân trong nhóm đối chứng có số lượng phôi nguyên bội trung bình cao hơn những người mang chuyển đoạn. Tuy nhiên, không có sự khác biệt về tỷ lệ tạo phôi nang có thể sử dụng ở cả hai nhóm (46,6% so với 50,0%, P=0,2)

  • Tỷ lệ tạo phôi nang trung bình khác nhau ở cả nhóm mang gen chuyển đoạn ở nữ giới (58,7% so với 62,1%, P=0,03) và nhóm mang gen chuyển đoạn ở nam giới (60,3% so với 62,1%, P=0,02) so với nhóm đối chứng.

Kết quả lâm sàng:  Không có sự khác biệt về tỉ lệ trẻ sinh sống (live birth rate - LBR) (63,3% so với 66,1%, P=0,2) hoặc tỉ lệ làm tổ bền vững thấp hơn của phôi (lower sustained implantation rates - SIR) (69,6% so với 75,1%, P=0,9) giữa người mang gen chuyển đoạn và đối chứng.
Ngoài ra, nhóm mang gen chuyển đoạn ở nữ giới và nam giới đều có số lượng phôi nguyên bội thấp hơn (1,8 so với 2,5 đối với người mang gen ở nữ giới, P <0,0001; 1,6 so với 2,5 đối với người mang gen ở nam giới, P=0,0001) so với nhóm đối chứng.
Khi so sánh bệnh nhân mang gen chuyển đoạn Robertsonian với bệnh nhân mang gen chuyển đoạn tương hỗ. Tỷ lệ tạo phôi nang (61,8% so với 59,3%, P=0,1), tỉ lệ tạo phôi nang có thể sử dụng (41,4% so với 47,9%, P=0,3), tỉ lệ làm tổ (65,2% so với 72,2%, P=0,3) và trẻ sinh sống (57,1% so với 63,8%, P=0,4) là tương đương nhau. Không có sự khác biệt về số lượng phôi nguyên bội ở những người mang gen chuyển đoạn Robertsonian và chuyển đoạn tương hỗ (2,2 so với 1,6, P=0,09).

Kết luận: Mặc dù số lượng phôi nguyên bội được tạo ra ở nhóm bệnh nhân mang gen chuyển đoạn thấp hơn, nhưng không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ tạo phôi nang sử dụng được hoặc tỷ lệ trẻ sinh sống khi so sánh với nhóm đối chứng vô sinh không mang bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể. Ngoài ra, số lượng phôi nguyên bội trung bình giữa hai nhóm bệnh nhân mang chuyển đoạn Robertsonian và chuyển đoạn tương hỗ cũng không cho thấy sự khác biệt đáng kể. Tuy nhiên, để đạt được số lượng phôi nang đủ cho chẩn đoán và chuyển phôi, các bệnh nhân mang chuyển đoạn thường phải trải qua nhiều chu kỳ chọc hút noãn hơn, dẫn đến gia tăng chi phí trong một quy trình vốn đã có chi phí điều trị cao.

Tài liệu tham khảo: Le, K. N., Maguire, M., Puchalt, N. G., Lidon, L., Sánchez-Martínez, A., Franasiak, J., & Osman, E. (2024). Parental balanced translocation carriers do not have decreased usable blastulation rates or live birth rates compared with infertile controls. Fertility and Sterility.


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Tiền Hội nghị: Trung tâm Hội nghị Grand Saigon, thứ bảy ngày ...

Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK