Tin tức
on Friday 08-11-2024 5:58am
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Trần Thị Hoa Phượng – IVF Tâm Anh
Giới thiệu: Trong những năm gần đây, kỹ thuật chuyển phôi đông lạnh (FET- frozen embryo transfer) đã trở thành một lựa chọn điều trị phổ biến cho cặp vợ chồng hiếm muộn. Liệu pháp hormone thay thế (HRT-hormone replacement therapy) được sử dụng để chuẩn bị nội mạc tử cung cho các chu kỳ FET và bổ sung estrogen một thành phần quan trọng của HRT thông qua các con đường khác nhau. Trong đó, dạng Estrogen viên uống và dạng Estrogen qua da là hai con đường được sử dụng rộng rãi nhất. Tuy nhiên, vẫn chưa có bằng chứng rõ ràng nào về kết quả lâm sàng của dạng estrogen qua da và dạng nào hiệu quả hơn.
Estrogen viên uống là dạng được phát triển đầu tiên và phổ biến vì đường dùng tiện lợi, tuy nhiên sau khi trải qua quá trình chuyển hoá đầu tiên ở gan, ngoại trừ estrone và các chất chuyển hoá giúp kích thích tăng sinh tế bào nội mạc tử cung, gan cũng chuyển hoá estrogen thành các chất chuyển hoá không hoạt động làm giảm hiệu quả của liệu pháp. Đồng thời, estrogen dạng viên cũng tạo ra sự dao động estrogen do sự hấp thụ và đào thải nhanh chóng khỏi cơ thể. Mặt khác, estrogen qua da có dạng miếng dán hay gel bôi hấp thu trực tiếp qua da nên giúp hạn chế liều đầu qua gan vì thế giảm được tác dụng phụ và ổn định nồng độ estrogen hơn. Estrogen qua da còn được khuyến cáo sử dụng trên phụ nữ có triglyceride cao và có nguy cơ huyết khối tĩnh mạch. Tuy nhiên, chưa có kết luận nào giữa hai dạng estrogen về các kết quả lâm sàng. Vì vậy, bài tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp này được tiến hành nhằm so sánh kết quả lâm sàng của estrogen viên uống (dạng viên) so với estrogen qua da (gel/miếng dán) trong phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung của chu kỳ chuyển phôi đông lạnh (HRT – FET).
Phương pháp: Đã tiến hành tìm kiếm tài liệu toàn diện cho tất cả các thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (RCT) được công bố trước ngày 30 tháng 5 năm 2022 trong các cơ sở dữ liệu từ các nguồn PubMed, Cochrane Library, Embase, CINAHL, Trip Database, Worldwide Science và Google Scholar với các từ khoá được tìm kiếm "estrogen dạng viên", "gel estrogen bôi ngoài da", "FET", "chuyển phôi đông lạnh", "Liệu pháp hormone thay thế ", "Chuẩn bị nội mạc tử cung". Các nghiên cứu được lựa chọn dựa trên tiêu chí: Bệnh nhân sử dụng Estrogen viên uống hoặc Estrogen bôi qua da để chuẩn bị nội mạc tử cung cho chu kỳ HRT – FET, không bao gồm hoặc không báo cáo các bệnh nhân có tiền sử bất thường tử cung, tăng sản hoặc ung thư nội mạc tử cung, hoặc hội chứng buồng trứng đa nang. Các kết quả lâm sàng bao gồm: độ dày nội mạc tử cung, tỷ lệ làm tổ, thai lâm sàng, sẩy thai, và tỷ lệ trẻ sinh sống), được tổng hợp bằng OR hoặc độ chênh lệch giá trị trung bình chuẩn (SMD) với khoảng tin cậy 95% (KTC 95%) bằng cách sử dụng mô hình hiệu ứng cố định/ngẫu nhiên.
Kết quả: Bảy nghiên cứu được công bố trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2021, với quy mô mẫu từ 30 đến 156 bệnh nhân IVF với tổng cộng 898 bệnh nhân IVF đã được đưa vào phân tích tổng hợp. Trong phân tích gộp, độ dày nội mạc tử cung cao hơn ở nhóm dùng estrogen qua da so với nhóm dùng estrogen viên uống (SMD = 0,16; KTC 95%: 0,02 – 0,31). Tuy nhiên, không có mối liên quan đáng kể nào đối với tỷ lệ làm tổ (OR = 0,76; KTC 95%: 0,42 – 1,38), tỷ lệ thai lâm sàng (OR = 0,98; KTC 95%: 0,74 – 1,31), tỷ lệ sẩy thai (OR = 1,28; KTC 95%: 0,79 – 2,06) và tỷ lệ trẻ sinh sống (OR = 0,73; KTC 95%: 0,43 – 1,23) được tìm thấy giữa nhóm estrogen viên uống so với nhóm estrogen dạng bôi ngoài da.
Phân tích tổng hợp cho thấy độ dày nội mạc tử cung cao hơn đáng kể ở nhóm estrogen bôi qua da so với nhóm estrogen viên uống. Những kết quả này cho thấy estrogen bôi qua da có thể hiệu quả hơn trong việc thúc đẩy sự phát triển nội mạc tử cung đối với FET trong các chu kỳ HRT-FET so với estrogen viên uống. Việc không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ làm tổ, thai lâm sàng, sẩy thai và tỷ lệ trẻ sinh sống giữa hai nhóm Estrogen bôi qua da và Estrogen viên uống cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây (Patil và cộng sự ,2021; Scheffer và cộng sự ,2021). Kết quả của phân tích tổng hợp này có ý nghĩa quan trọng đối với thực hành lâm sàng. Mặc dù có thể không có sự khác biệt đáng kể nào về kết quả lâm sàng giữa việc dùng estrogen viên uống và đường qua da, nhưng phát hiện cho thấy việc dùng qua da có thể dẫn đến lớp niêm mạc tử cung dày hơn có thể được các bác sĩ lâm sàng đặc biệt quan tâm và ưu tiên sử dụng trong trường hợp độ dày tử cung mỏng hoặc đảm bảo độ dày tử cung đủ dày cho các chu kỳ FET.
Ngoài ra, tuần hoàn ruột-gan đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định của nồng độ estrogen, đặc biệt là khi dùng estrogen qua đường uống (Hu và cộng sự, 2023). Bên cạnh đó, Chen và cộng sự (2016) đã báo cáo nguy cơ tiền sản giật cao hơn đáng kể (gấp hai lần) trong các chu kỳ HRT-FET so với các chu kỳ chuyển phôi tươi ở những phụ nữ được chẩn đoán mắc hội chứng buồng trứng đa nang.
Điểm mạnh của bài tổng quan là hầu hết các thử nghiệm lâm sàng trong bài tổng quan được đánh giá là có rủi ro/ sai lệch thấp hoặc không rõ ràng. Tuy nhiên, điểm yếu của nghiên cứu là khác biệt về đặc điểm cỡ mẫu, phác đồ Estrogen, đồng thời các nghiên cứu trong bài cũng không nêu rõ về tác động lâu dài của việc sử dụng Estrogen, ví dụ như huyết khối tĩnh mạch.
Kết luận: Trong các chu kỳ HRT-FET sử dụng estrogen dạng viên uống hoặc dạng bôi qua da, nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể nào về kết quả lâm sàng về tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ thai lâm sàng, sẩy thai và tỷ lệ trẻ sinh sống; tuy nhiên, nhóm estrogen qua da có xu hướng độ dày nội mạc tử cung cao hơn ở nhóm dạng bôi ngoài da.
Nguồn tài liệu: Humaidan, P., Murdia, K., Chandra, V., Bhoi, N., Suwalka, I., & Punhani, R. (2024). Clinical Outcomes of Oral vs. Transdermal Estrogen for Endometrial Preparation for Frozen Thawed Embryo Transfer in HRT-FET Cycles: A Systematic Review and Meta-Analysis. Fertility & Reproduction, 6(02), 91-99.
Giới thiệu: Trong những năm gần đây, kỹ thuật chuyển phôi đông lạnh (FET- frozen embryo transfer) đã trở thành một lựa chọn điều trị phổ biến cho cặp vợ chồng hiếm muộn. Liệu pháp hormone thay thế (HRT-hormone replacement therapy) được sử dụng để chuẩn bị nội mạc tử cung cho các chu kỳ FET và bổ sung estrogen một thành phần quan trọng của HRT thông qua các con đường khác nhau. Trong đó, dạng Estrogen viên uống và dạng Estrogen qua da là hai con đường được sử dụng rộng rãi nhất. Tuy nhiên, vẫn chưa có bằng chứng rõ ràng nào về kết quả lâm sàng của dạng estrogen qua da và dạng nào hiệu quả hơn.
Estrogen viên uống là dạng được phát triển đầu tiên và phổ biến vì đường dùng tiện lợi, tuy nhiên sau khi trải qua quá trình chuyển hoá đầu tiên ở gan, ngoại trừ estrone và các chất chuyển hoá giúp kích thích tăng sinh tế bào nội mạc tử cung, gan cũng chuyển hoá estrogen thành các chất chuyển hoá không hoạt động làm giảm hiệu quả của liệu pháp. Đồng thời, estrogen dạng viên cũng tạo ra sự dao động estrogen do sự hấp thụ và đào thải nhanh chóng khỏi cơ thể. Mặt khác, estrogen qua da có dạng miếng dán hay gel bôi hấp thu trực tiếp qua da nên giúp hạn chế liều đầu qua gan vì thế giảm được tác dụng phụ và ổn định nồng độ estrogen hơn. Estrogen qua da còn được khuyến cáo sử dụng trên phụ nữ có triglyceride cao và có nguy cơ huyết khối tĩnh mạch. Tuy nhiên, chưa có kết luận nào giữa hai dạng estrogen về các kết quả lâm sàng. Vì vậy, bài tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp này được tiến hành nhằm so sánh kết quả lâm sàng của estrogen viên uống (dạng viên) so với estrogen qua da (gel/miếng dán) trong phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung của chu kỳ chuyển phôi đông lạnh (HRT – FET).
Phương pháp: Đã tiến hành tìm kiếm tài liệu toàn diện cho tất cả các thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (RCT) được công bố trước ngày 30 tháng 5 năm 2022 trong các cơ sở dữ liệu từ các nguồn PubMed, Cochrane Library, Embase, CINAHL, Trip Database, Worldwide Science và Google Scholar với các từ khoá được tìm kiếm "estrogen dạng viên", "gel estrogen bôi ngoài da", "FET", "chuyển phôi đông lạnh", "Liệu pháp hormone thay thế ", "Chuẩn bị nội mạc tử cung". Các nghiên cứu được lựa chọn dựa trên tiêu chí: Bệnh nhân sử dụng Estrogen viên uống hoặc Estrogen bôi qua da để chuẩn bị nội mạc tử cung cho chu kỳ HRT – FET, không bao gồm hoặc không báo cáo các bệnh nhân có tiền sử bất thường tử cung, tăng sản hoặc ung thư nội mạc tử cung, hoặc hội chứng buồng trứng đa nang. Các kết quả lâm sàng bao gồm: độ dày nội mạc tử cung, tỷ lệ làm tổ, thai lâm sàng, sẩy thai, và tỷ lệ trẻ sinh sống), được tổng hợp bằng OR hoặc độ chênh lệch giá trị trung bình chuẩn (SMD) với khoảng tin cậy 95% (KTC 95%) bằng cách sử dụng mô hình hiệu ứng cố định/ngẫu nhiên.
Kết quả: Bảy nghiên cứu được công bố trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2021, với quy mô mẫu từ 30 đến 156 bệnh nhân IVF với tổng cộng 898 bệnh nhân IVF đã được đưa vào phân tích tổng hợp. Trong phân tích gộp, độ dày nội mạc tử cung cao hơn ở nhóm dùng estrogen qua da so với nhóm dùng estrogen viên uống (SMD = 0,16; KTC 95%: 0,02 – 0,31). Tuy nhiên, không có mối liên quan đáng kể nào đối với tỷ lệ làm tổ (OR = 0,76; KTC 95%: 0,42 – 1,38), tỷ lệ thai lâm sàng (OR = 0,98; KTC 95%: 0,74 – 1,31), tỷ lệ sẩy thai (OR = 1,28; KTC 95%: 0,79 – 2,06) và tỷ lệ trẻ sinh sống (OR = 0,73; KTC 95%: 0,43 – 1,23) được tìm thấy giữa nhóm estrogen viên uống so với nhóm estrogen dạng bôi ngoài da.
Phân tích tổng hợp cho thấy độ dày nội mạc tử cung cao hơn đáng kể ở nhóm estrogen bôi qua da so với nhóm estrogen viên uống. Những kết quả này cho thấy estrogen bôi qua da có thể hiệu quả hơn trong việc thúc đẩy sự phát triển nội mạc tử cung đối với FET trong các chu kỳ HRT-FET so với estrogen viên uống. Việc không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ làm tổ, thai lâm sàng, sẩy thai và tỷ lệ trẻ sinh sống giữa hai nhóm Estrogen bôi qua da và Estrogen viên uống cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây (Patil và cộng sự ,2021; Scheffer và cộng sự ,2021). Kết quả của phân tích tổng hợp này có ý nghĩa quan trọng đối với thực hành lâm sàng. Mặc dù có thể không có sự khác biệt đáng kể nào về kết quả lâm sàng giữa việc dùng estrogen viên uống và đường qua da, nhưng phát hiện cho thấy việc dùng qua da có thể dẫn đến lớp niêm mạc tử cung dày hơn có thể được các bác sĩ lâm sàng đặc biệt quan tâm và ưu tiên sử dụng trong trường hợp độ dày tử cung mỏng hoặc đảm bảo độ dày tử cung đủ dày cho các chu kỳ FET.
Ngoài ra, tuần hoàn ruột-gan đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định của nồng độ estrogen, đặc biệt là khi dùng estrogen qua đường uống (Hu và cộng sự, 2023). Bên cạnh đó, Chen và cộng sự (2016) đã báo cáo nguy cơ tiền sản giật cao hơn đáng kể (gấp hai lần) trong các chu kỳ HRT-FET so với các chu kỳ chuyển phôi tươi ở những phụ nữ được chẩn đoán mắc hội chứng buồng trứng đa nang.
Điểm mạnh của bài tổng quan là hầu hết các thử nghiệm lâm sàng trong bài tổng quan được đánh giá là có rủi ro/ sai lệch thấp hoặc không rõ ràng. Tuy nhiên, điểm yếu của nghiên cứu là khác biệt về đặc điểm cỡ mẫu, phác đồ Estrogen, đồng thời các nghiên cứu trong bài cũng không nêu rõ về tác động lâu dài của việc sử dụng Estrogen, ví dụ như huyết khối tĩnh mạch.
Kết luận: Trong các chu kỳ HRT-FET sử dụng estrogen dạng viên uống hoặc dạng bôi qua da, nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể nào về kết quả lâm sàng về tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ thai lâm sàng, sẩy thai và tỷ lệ trẻ sinh sống; tuy nhiên, nhóm estrogen qua da có xu hướng độ dày nội mạc tử cung cao hơn ở nhóm dạng bôi ngoài da.
Nguồn tài liệu: Humaidan, P., Murdia, K., Chandra, V., Bhoi, N., Suwalka, I., & Punhani, R. (2024). Clinical Outcomes of Oral vs. Transdermal Estrogen for Endometrial Preparation for Frozen Thawed Embryo Transfer in HRT-FET Cycles: A Systematic Review and Meta-Analysis. Fertility & Reproduction, 6(02), 91-99.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng tần suất tiếp xúc với không khí của phôi đông lạnh lên kết quả lâm sàng của các chu kỳ chuyển phôi trữ: phân tích hồi cứu 9.200 chu kỳ chuyển phôi trữ rã bằng phương pháp thủy tinh hóa - Ngày đăng: 06-11-2024
Tác động của tổng liều gonadotropin lên chất lượng phôi và kết quả lâm sàng với phân tầng AMH trong chu kỳ IVF: phân tích hồi cứu trên 12.588 bệnh nhân - Ngày đăng: 06-11-2024
Các dấu hiệu gián tiếp về chất lượng noãn ở những bệnh nhân bị lạc nội mạc tử cung buồng trứng thực hiện IVF/ICSI: một tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp - Ngày đăng: 06-11-2024
Trẻ sinh sống từ noãn có thể cực lớn bất thường: một báo cáo trường hợp hiếm gặp - Ngày đăng: 06-11-2024
Phát triển protein PLC-Zeta tái tổ hợp như là một phương pháp điều trị cho tình trạng hoạt hóa noãn thất bại - Ngày đăng: 06-11-2024
Mối liên quan giữa lão hóa nam và chất lượng tinh dịch: một nghiên cứu hồi cứu trên 2500 nam giới - Ngày đăng: 06-11-2024
Những hiểu biết mới về quá trình phóng noãn ở buồng trứng người - Ngày đăng: 02-11-2024
Vai trò của xơ hóa trong bệnh lạc nội mạc tử cung: tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 02-11-2024
Thay đổi tỷ lệ giới tính sau khi chuyển đơn phôi nang đông lạnh liên quan đến các thông số hình thái phôi nang - Ngày đăng: 01-11-2024
Nuôi cấy in vitro nang noãn thứ cấp phân lập từ mô vỏ buồng trứng được bảo quản lạnh - Ngày đăng: 01-11-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK