Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin chuyên ngành
on Tuesday 02-07-2024 3:03am
Viết bởi: Khoa Pham
CNXN. Nguyễn Thị Thủy Tiên, CNSH. Trần Hồ Khánh Duyên
Bệnh viện Đại Học Y Dược Buôn Ma Thuột
  1. Lạc nội mạc tử cung
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là một bệnh lý phụ khoa phổ biến ảnh hưởng đến 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản trên thế giới, cùng nhiều biểu hiện lâm sàng đặc trưng bởi đau bụng kinh, có thể xuất hiện ở buồng trứng, ống dẫn trứng hoặc âm đạo (1). LNMTC buồng trứng có thể gây tăng viêm vùng chậu và stress oxy hóa, ảnh hưởng đến phát triển nang noãn và hình thái noãn, giảm khả năng di chuyển của giao tử và phôi, gây rối loạn chức năng miễn dịch và nội tiết. Nhiều nghiên cứu cho thấy stress oxy hóa (OS) hoặc sự mất cân bằng giữa các loại oxy phản ứng (ROS) và chất chống oxy hóa trong môi trường dịch nang noãn là một yếu tố quan trọng gây ra vô sinh liên quan LNMTC, được cho là có ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hình thành nang noãn, gây suy giảm chất lượng noãn, rụng trứng và tạo phôi (2). Tuy nhiên, cho đến hiện tại các nghiên cứu cơ chế bệnh sinh LNMTC chưa được làm rõ, một số giả thuyết cho rằng những thay đổi bệnh lý quá mức có thể gây ra bất thường mạng lưới nội chất (ER) và rối loạn chức năng ty thể của các tế bào hạt (GC) trong dịch nang noãn dẫn đến sự lão hóa tế bào, tăng khả năng oxi hoá và làm rối loạn sự hình thành thoi vô sắc. Do đó, các nghiên cứu về cơ chế liên quan đến ROS kích hoạt sự lão hóa của tế bào và làm rõ những thay đổi bệnh lý của tế bào hạt có trong dịch nang của bệnh nhân LNMTC có thể giúp phát triển các chiến lược mới, từ đó có thể cải thiện chất lượng nang noãn và kết cục thai lâm sàng.
 
  1. Vai trò của tế bào hạt trong sự phát triển noãn bào
Sự hình thành và phát triển nang noãn cũng như tiềm năng phát triển của noãn phụ thuộc vào hệ thống các yếu tố điều hòa liên quan đến các con đường truyền tín hiệu của các yếu tố nội tiết, cận tiết và tự tiết. Trong đó các tế bào hạt bao quanh noãn (Granulosa cells – GC) đóng một vai trò quan trọng trong việc trao đổi chất và truyền tín hiệu. GC có vai trò đồng bộ quá trình trưởng thành của nhân và tế bào chất, đồng thời hoàn thành quá trình giảm phân bằng cách cung cấp nhiều yếu tố cho noãn như adenosine monophosphate, guanosine monophosphate(cGMP) và các phân tử điều hòa (3). Những giai đoạn phát triển sớm của nang noãn, quá trình trao đổi tín hiệu và tương tác tế bào giữa noãn và tế bào hạt được thông qua các liên kết dính, N – cadherin và nectin 2 nhưng không xuất hiện các liên kết chặt chẽ như loại liên kết giữa các tế bào hạt dạng khối. Tuy nhiên, ở giai đoạn nang noãn tiền hốc và giai đoạn sớm của nang noãn có hốc, các tế bào hạt tập hợp quanh noãn như một hợp bào chức năng, tương tác với noãn thông qua liên kết gap junction. Trong suốt quá trình phát triển nang noãn, các TZP nhô ra từ đỉnh tế bào hạt kết nối GC với noãn, tạo thành các cầu nối truyền chất dinh dưỡng và các phân tử nhỏ như ion, chất chuyển hóa, axit amin và phân tử tín hiệu nội bào từ tế bào hạt đến nang noãn thông qua các tế bào cumulus (4). Do đó, tế bào hạt thông qua các liên kết giữa noãn và các tế bào sinh dưỡng có nguồn gốc từ nang noãn thực sự cần thiết cho quá trình biến dưỡng của noãn và nang noãn trong suốt sự phát triển và trưởng thành. Thành phần đóng vai trò quan trọng nhất trong tương tác này chính là các TZP, qua đó hình thành hai loại liên kết chính là liên kết gap junction và liên kết dính. Mỗi loại liên kết lại được cấu tạo bởi các protein khác nhau, nhằm trao đổi các phân tử đích khác nhau giữa noãn và các tế bào sinh dưỡng của nang noãn giúp đồng bộ hoá sự phát triển của noãn và các tế bào sinh dưỡng của nang noãn, hỗ trợ tối ưu cho tiềm năng phát triển của noãn sau phóng noãn.
 
  1. Chất lượng noãn bào ở những bệnh nhân LNMTC
Chất lượng noãn được phản ánh bởi hình thái, khả năng hoàn thành giảm phân và thụ tinh. Các bất thường về hình thái noãn đối với kết quả IVF thường gặp bao gồm: thể cực lớn, khoảng không quanh noãn (PVS) rộng, sự hiện diện của các thể vùi (reflextile bodies – RF) và có không bào trong bào tương. Một nghiên cứu tổng quan cho thấy noãn thu được từ phụ nữ LNMTC thường khó khăn trong quá trình nuôi trưởng thành trong ống nghiệm (IVM). Những noãn này thường có hình thái bất thường, hàm lượng ty thể thấp, tỷ lệ mất hạt vỏ cao, bất thường thoi vô sắc và màng trong suốt cứng (5). Một nghiên cứu đánh giá sự trưởng thành noãn được thực hiện IVM từ những phụ nữ LNMTC và phụ nữ bình thường cho thấy số lượng noãn bào chưa trưởng thành ở nhóm LNMTC thấp hơn đáng kể so với nhóm chứng (6). Tương tự, một nghiên cứu hồi cứu trên 1568 noãn trưởng thành ở phụ nữ LNMTC so với nhóm đối chứng cho thấy có sự gia tăng đáng kể các bất thường về hình thái của tế bào chất, màng trong suốt (ZP) và thể cực thứ nhất (PB) (7). Nghiên cứu thực hiện IVF với noãn được hiến từ phụ nữ bình thường cho bệnh nhân LNMTC cho thấy tỷ lệ làm tổ và mang thai tương đương với bệnh nhân không bị LNMTC, tuy nhiên, tỷ lệ làm tổ giảm ở LNMTC giai đoạn III và IV (8). Bệnh nhân LNMTC sử dụng noãn tự thân có tỷ lệ làm tổ và mang thai thấp hơn, cho thấy nguyên nhân chủ yếu do chất lượng noãn kém. Trong một nghiên cứu hồi cứu trên 596 bệnh nhân, cho thấy LNMTC không ảnh hưởng đến hình thái noãn, nhưng số lượng noãn trưởng thành, tổng số phôi, tỷ lệ phôi tốt và trẻ sinh sống thấp hơn. Các gốc oxy hóa (ROS) ở những bệnh nhân LNMTC được chứng minh là hoạt động quá mức gây bất thường phân bào và mất ổn định nhiễm sắc thể. Hơn nữa, môi trường dịch nang noãn ở phụ nữ vô sinh do LNMTC cho thấy khả năng chống oxy hóa thấp và stress oxy hóa cao (9). Các con đường bị ảnh hưởng bao gồm những con đường liên quan đến các quá trình sinh học quan trọng như chuyển hóa steroid, phản ứng với stress oxy hóa và điều hòa tăng trưởng tế bào. Cho đến nay, các bằng chứng lâm sàng về hình thái noãn ảnh hưởng đến kết quả sinh sản ở phụ nữ LNMTC còn nhiều hạn chế. Mặc dù có bằng chứng cho thấy hình thái noãn bất thường có thể có tác động xấu đến tỷ lệ thụ tinh, nhưng hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra rằng không có sự khác biệt về tỷ lệ phôi phân chia, làm tổ hoặc mang thai lâm sàng sau IVF, vì vậy có thể thấy một khi noãn được thụ tinh, cơ hội mang thai là như nhau ở phụ nữ có và không có lạc nội mạc tử cung (10).
 
  1. Cơ chế lạc nội mạc tử cung gây giảm chất lượng tế bào hạt
  1. Stress oxy hóa
Nghiên cứu của Lin và cộng sự (2020) khi thực hiện đo nồng độ ROS tế bào hạt trên các bệnh nhân thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) bằng phương pháp dòng chảy tế bào cho thấy ROS nội bào tăng đáng kể trong tế bào hạt ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung so với nhóm đối chứng. Sự tích tụ ROS quá mức trong tế bào hạt ở bệnh nhân LNMTC cũng đã được chứng minh ở cấp độ protein, vì iNOS (inducible nitric oxide synthase - kháng khuẩn và tăng cường phản ứng miễn dịch) và SOD1 (superoxide dismutase 1 - enzyme chống oxy hóa) giảm đáng kể trong các tế bào hạt ở nhóm bệnh nhân LNMTC so với các tế bào hạt ở nhóm đối chứng (11). Để có thể duy trì chức năng tế bào hạt, lưới nội chất phải điều chỉnh chính xác quá trình tổng hợp protein như gấp cuộn, trưởng thành hoặc phá hủy các protein cuộn sai lỗi trong cấu trúc lưới nội chất bên trong bào tương, stress oxy hóa tăng cao liên quan đến rối loạn chức năng lưới nội chất và tích tụ các protein bị sai lệch và các tế bào lão hóa thường cho thấy quá trình proteostasis của lưới nội chất bị rối loạn (12). Trong một nghiên cứu của Chisato và cộng sự (2020), đánh giá tình trạng stress oxy hóa trên các tế bào hạt được thực hiện bởi phương pháp nuôi cấy các tế bào hạt và ủ với H2O2 (một chất gây ra stress oxy hóa), sau đó tách chiết RNA (Ribonucleic acid) và dùng kỹ thuật qRT-PCR để định lượng sự biểu hiện các phân tử đánh dấu (marker) đặc trưng cho stress trên lưới nội chất. Kết quả cho thấy các tế bào hạt ở bệnh nhân LNMTC biểu hiện ở mức cao các dấu hiệu sinh học đặc trưng cho các đáp ứng stress trên lưới nội chất (13).
  1. Tế bào chết theo chương trình (Apoptosis)
Theo Chisato và cộng sự (2020) tình trạng stress oxy hoá kích hoạt quá trình chết theo chương trình của tế bào (apoptosis) thông qua caspase-8 và caspase-3. Các kết quả phân tích trong nghiên cứu này chỉ ra rằng các stress trên lưới nội chất hoạt hoá bởi các tác nhân stress oxy hoá ở các tế bào hạt trên buồng trứng bị ảnh hưởng bởi các mô lạc nội mạc làm trung gian cho quá trình apoptosis của các tế bào này. Từ đó, dẫn đến rối loạn chức năng buồng trứng ở bệnh nhân được chẩn đoán lạc nội mạc tử cung (13).
Kích hoạt stress oxy hóa lưới nội chất trong tế bào hạt dẫn đến suy giảm trưởng thành phức hợp tích lũy-noãn bào, apoptosis, rối loạn chuyển hóa nang noãn hoặc xơ hóa buồng trứng.
Theo nghiên cứu của Mayumi và cộng sự (2000), bệnh nhân được chia thành bốn nhóm theo nguyên nhân gây vô sinh: yếu tố ống dẫn trứng (T), n = 7; yếu tố nam (M), n = 7; chưa rõ nguyên nhân (I), n = 7; và lạc nội mạc tử cung (E), n = 9. Các tế bào hạt được lấy từ dịch nang của mỗi bệnh nhân và được phân tích bằng máy đếm dòng chảy tế bào. Tỷ lệ apoptosis trung bình (± SD) trong các tế bào granulosa thu được từ bệnh nhân lạc nội mạc tử cung là cao nhất trong số bốn nhóm (T = 11,7% ± 3,3%; M = 5,6% ± 3,8%; I = 9,6% ± 5,1%; và E = 18,6% ± 9,6%) (14).
Theo Sanchez và cộng sự (2014), nghiên cứu nhằm đánh giá vai trò của con đường tín hiệu WNT/β-catenin trong việc điều chỉnh quá trình apoptosis của tế bào hạt. Phân tích phương pháp dòng chảy tế bào trên hai nhóm phụ nữ lạc nội mạc tử cung và nhóm đối chứng là những phụ nữ khoẻ mạnh cho thấy con đường tín hiệu này đã bị thay đổi trong các tế bào hạt từ bệnh nhân lạc nội mạc tử cung, kết quả cho thấy ở nhóm bệnh nhân lạc nội mạc tử cung có sự tăng apoptosis các tế bào hạt cao gấp 2,27 lần so với nhóm đối chứng. Nghiên cứu chỉ ra rằng ở phụ nữ LNMTC, các tế bào hạt không chỉ được đặc trưng bởi sự tăng apoptosis và điều chỉnh giảm gen biểu hiện sự sống mà còn giảm biểu hiện gen của BMP4, cuối cùng dẫn đến sự teo nang noãn và giảm tỷ lệ thành công khi thực hiện các phương pháp hỗ trợ sinh sản (15).
  1. Sản xuất hormon steroid
Sự tổng hợp và tiết hormone steroid của tế bào hạt rất quan trọng cho sự phát triển và trưởng thành nang noãn. Lượng thụ thể FSH và LH trên bề mặt tế bào hạt tăng dần theo từng giai đoạn phát triển của nang noãn, dưới tác động của FSH tế bào hạt thực hiện quá trình sinh tổng hợp estrogen nhằm tăng sinh các tế bào cumulus. Do đó, những nang noãn phát triển bất thường ở bệnh nhân LNMTC có liên quan đến con đường tín hiệu FSH bị lỗi hoạt động trên bề mặt tế bào hạt và bệnh nhân LNMTC cũng đáp ứng với FSH kém hiệu quả hơn trong quá trình kích thích buồng trứng.
Các tế bào hạt sản xuất và tiết ra phần lớn các hormone trong nang trứng, mức độ hormone trong dịch nang thể hiện khả năng tiết hormone steroid của tế bào hạt. Tăng nồng độ progesterone (P4) trong nang noãn có thể liên quan đến suy giảm chất lượng tế bào noãn và ảnh hưởng kết cục thai ở phụ nữ lạc nội mạc tử cung. Beclin-1 (BECN1), một chất trung gian thiết yếu của quá trình tự thực bào, đã được chứng minh có liên quan đến sự phát triển của lạc nội mạc tử cung. Theo nghiên cứu của Ying và cộng sự (2020) đã chứng minh rằng tỷ lệ progesterone (P4)/estradiol (E2) trong huyết thanh và chỉ số P4 trên mỗi nang noãn tăng cao ở phụ nữ lạc nội mạc tử cung buồng trứng vào ngày tiêm rụng trứng. BECN1 và sự tự thực bào có biểu hiện tăng ở tế bào hạt của bệnh nhân lạc nội mạc tử cung. Ức chế BECN1 làm giảm quá trình tự thực của tế bào hạt và làm giảm tổng hợp Cholesterol LDL (16). Theo Wunder và cộng sự (2005), nồng độ estrogen và testosterone trong dịch nang của phụ nữ LNMTC thấp hơn so với những phụ nữ không có LNMTC, nhưng lượng progesterone cao hơn. Khi nồng độ estrogen trong nang noãn thấp, thường thể hiện sự suy giảm chất lượng noãn từ đó dẫn đến giảm tỷ lệ thành công khi điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (17).
  1. Chuyển hóa năng lượng ty thể
Tế bào hạt kết nối với noãn thông qua các liên kết khe và kênh vận chuyển xuyên màng, chúng tác động đến bào tương noãn, tham gia vào các con đường điều hoà nội tiết và truyền tín hiệu hỗ trợ sự phát triển và trưởng thành noãn, trong đó ty thể đóng một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển hóa năng lượng. Các bằng chứng tích lũy cho thấy rối loạn chức năng ty thể của noãn dẫn đến giảm chất lượng phôi và khả năng sinh sản do không được cung cấp đủ năng lượng cho quá trình trưởng thành và phát triển của noãn. Do đó, hình thái ty thể, lượng biểu hiện DNA ty thể (mtDNA) và hiệu quả tổng hợp adenosine-triphosphate (ATP) trong tế bào hạt đều ảnh hưởng đến tiềm năng phát triển noãn ở một mức độ nào đó. Theo nghiên cứu của Boxu và cộng sự (2015), ty thể từ tế bào hạt của bệnh nhân LNMTC có nhiều bất thường về hình thái như phù nề và mờ. Bên cạnh đó khi phân tích số lượng bản sao mtDNA trên mỗi noãn bào từ nhóm bệnh nhân lạc nội mạc tử cung và nhóm đối chứng cho thấy sự biểu hiện mtDNA ở bệnh nhân LNMTC giảm đáng kể so với nhóm đối chứng (18).
Ngoài ra, Prohibitin 1 (PHB1) là một loại protein liên quan đến chức năng ty thể, được biểu hiện khác biệt trong nội mạc tử cung của bệnh nhân LNMTC. Nghiên cứu của Jingqin và cộng sự (2022) cho thấy biểu hiện PHB1 tăng đáng kể trên các tế bào hạt ở bệnh nhân LNMTC, tăng tiêu thụ glucose và sản xuất axit lactic, cũng như biểu hiện bất thường của các enzyme liên quan đến glycolysis so với những phụ nữ bình thường (P < 0,05). Nghiên cứu này cho thấy PHB1 đóng một vai trò quan trọng trong việc hạn chế mất năng lượng do suy giảm chức năng ty thể trong các tế bào hạt của bệnh nhân LNMTC, điều này có thể giải thích một phần tại sao ở những bệnh nhân này có chất lượng noãn kém (19).
  1. Biểu hiện bất thường của hệ thống KISS1/KISS1R
Hệ thống KISS1/KISS1R hoạt động chủ yếu ở vùng dưới đồi của trục tuyến sinh dục, nơi điều hoà bài tiết hormone giải phóng gonadotropin (GnRH) và giải phóng gonadotropin. Ngoài ra, các báo cáo khác nhau đã chỉ ra rằng các mRNA hoặc protein KISS1 và KISS1R còn được biểu hiện trong các mô sinh sản ngoại vi, đặc biệt là trong tử cung, buồng trứng và nhau thai của các loài động vật có vú khác nhau, bao gồm cả con người. Kết quả từ các nghiên cứu đã chỉ ra rằng KISS1/KISS1R có mặt trong các tế bào hạt và tế bào Cumulus (20). Nghiên cứu của Blasco và cộng sự (2020), khi thực hiện so sánh biểu hiện của KISS1/KISS1R trong tế bào hạt của 45 phụ nữ khỏe mạnh và 25 phụ nữ LNMTC. Sau khi chọc hút noãn, thu nhận tế bào hạt và cumulus từ các noãn bào của bệnh nhân, các nhà khoa học thực hiện phương pháp PCR phiên mã ngược (RT-qPCR) để định lượng sự biểu hiện của KISS1/KISS1R trong tế bào hạt và tế bào cumulus của phụ nữ nhóm đối chứng và phụ nữ LNMTC. Kết quả cho thấy mức độ biểu hiện của KISS1 tương tự nhau ở phụ nữ vô sinh do lạc nội mạc tử cung và phụ nữ khỏe mạnh, tuy nhiên biểu hiện của KISS1R cao hơn đáng kể ở tế bào cumulus trong nhóm phụ nữ lạc nội mạc tử cung so với nhóm đối chứng (21).
Hiện nay, nghiên cứu về KISS1/KISS1R ở tế bào hạt của phụ nữ LNMTC vẫn còn nhiều hạn chế, do đó cần nhiều nghiên cứu sâu hơn để làm rõ cơ chế gia tăng sự biểu hiện KISS1R, mối quan hệ tiềm năng giữa KISS1/KISS1R và lạc nội mạc tử cung. KISS1/KISS1R có thể là dấu ấn sinh học đóng một vai trò quan trọng để chẩn đoán và phát hiện lạc nội mạc tử cung.
 
  1. Kết luận
Tế bào hạt đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển và trưởng thành noãn cũng như trong điều trị TTTON, do đó suy giảm chất lượng noãn bào ở bệnh nhân LNMTC sẽ khiến việc mang thai trở nên khó khăn đối với phụ nữ và gia tăng tỷ lệ thất bại khi điều trị bằng các phương pháp hỗ trợ sinh sản. Các bằng chứng hiện nay cho thấy LNMTC làm giảm chất lượng noãn bào thông qua quá trình apoptosis, viêm, stress oxy hóa, rối loạn steroid, chuyển hóa năng lượng ty thể và biểu hiện KISS1R bất thường trên tế bào hạt. Điều này cũng cung cấp một hướng điều trị có thể cải thiện tỷ lệ thành công của công nghệ hỗ trợ sinh sản ở bệnh nhân LNMTC. Tuy nhiên các nghiên cứu về mối tương quan giữa các quá trình này của tế bào hạt và LNMTC vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, trong tương lai cần nhiều nghiên cứu sâu hơn để hiểu rõ về các con đường cũng như cơ chế của tế bào hạt ảnh hưởng đến chất lượng noãn bào và tìm ra phương pháp để cải thiện tình trạng bất thường của tế bào hạt do LNMTC gây ra. Từ đó, có thể gia tăng chất lượng noãn/phôi, cải thiện tỷ lệ mang thai và tỷ lệ thành công trong điều trị TTTON.
 
  1. TLTK
1.         Vercellini P, Viganò P, Somigliana E, Fedele L. Endometriosis: pathogenesis and treatment. Nat Rev Endocrinol. 2014 May;10(5):261–75.
2.         Da Broi MG, de Albuquerque FO, de Andrade AZ, Cardoso RL, Jordão Junior AA, Navarro PA. Increased concentration of 8-hydroxy-2’-deoxyguanosine in follicular fluid of infertile women with endometriosis. Cell Tissue Res. 2016 Oct;366(1):231–42.
3.         Van Soom A, Tanghe S, De Pauw I, Maes D, de Kruif A. Function of the cumulus oophorus before and during mammalian fertilization. Reprod Domest Anim Zuchthyg. 2002 Jun;37(3):144–51.
4.         Su YQ, Sugiura K, Eppig JJ. Mouse oocyte control of granulosa cell development and function: paracrine regulation of cumulus cell metabolism. Semin Reprod Med. 2009 Jan;27(1):32–42.
5.         Is the oocyte quality affected by endometriosis? A review of the literature - PubMed [Internet]. [cited 2024 May 27]. Available from: https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/28701212/
6.         Goud PT, Goud AP, Joshi N, Puscheck E, Diamond MP, Abu-Soud HM. Dynamics of nitric oxide, altered follicular microenvironment, and oocyte quality in women with endometriosis. Fertil Steril. 2014 Jul;102(1):151-159.e5.
7.         Kasapoglu I, Kuspinar G, Saribal S, Turk P, Avcı B, Uncu G. Detrimental effects of endometriosis on oocyte morphology in intracytoplasmic sperm injection cycles: a retrospective cohort study. Gynecol Endocrinol Off J Int Soc Gynecol Endocrinol. 2018 Mar;34(3):206–11.
8.         Simón C, Gutiérrez A, Vidal A, de los Santos MJ, Tarín JJ, Remohí J, et al. Outcome of patients with endometriosis in assisted reproduction: results from in-vitro fertilization and oocyte donation. Hum Reprod Oxf Engl. 1994 Apr;9(4):725–9.
9.         Regiani T, Cordeiro FB, da Costa L do VT, Salgueiro J, Cardozo K, Carvalho VM, et al. Follicular fluid alterations in endometriosis: label-free proteomics by MS(E) as a functional tool for endometriosis. Syst Biol Reprod Med. 2015;61(5):263–76.
10.       Impact of the endometrioma on ovarian response and pregnancy rate in in vitro fertilization cycles - PubMed [Internet]. [cited 2024 May 27]. Available from: https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/24696766/
11.       Lin X, Dai Y, Tong X, Xu W, Huang Q, Jin X, et al. Excessive oxidative stress in cumulus granulosa cells induced cell senescence contributes to endometriosis-associated infertility. Redox Biol. 2020 Jan 12;30:101431.
12.       Guzel E, Arlier S, Guzeloglu-Kayisli O, Tabak MS, Ekiz T, Semerci N, et al. Endoplasmic Reticulum Stress and Homeostasis in Reproductive Physiology and Pathology. Int J Mol Sci. 2017 Apr 8;18(4):792.
13.       Kunitomi C, Harada M, Takahashi N, Azhary JMK, Kusamoto A, Nose E, et al. Activation of endoplasmic reticulum stress mediates oxidative stress-induced apoptosis of granulosa cells in ovaries affected by endometrioma. Mol Hum Reprod. 2020 Jan 1;26(1):40–52.
14.       Toya M, Saito H, Ohta N, Saito T, Kaneko T, Hiroi M. Moderate and severe endometriosis is associated with alterations in the cell cycle of granulosa cells in patients undergoing in vitro fertilization and embryo transfer. Fertil Steril. 2000 Feb 1;73(2):344–50.
15.       Sanchez AM, Viganò P, Quattrone F, Pagliardini L, Papaleo E, Candiani M, et al. The WNT/β-catenin signaling pathway and expression of survival promoting genes in luteinized granulosa cells: endometriosis as a paradigm for a dysregulated apoptosis pathway. Fertil Steril. 2014 Jun 1;101(6):1688–96.
16.       Induction of autophagy by Beclin-1 in granulosa cells contributes to follicular progesterone elevation in ovarian endometriosis - Translational Research [Internet]. [cited 2024 May 27]. Available from: https://www.translationalres.com/article/S1931-5244(20)30165-1/abstract
17.       Wunder DM, Mueller MD, Birkhäuser MH, Bersinger NA. Steroids and protein markers in the follicular fluid as indicators of oocyte quality in patients with and without endometriosis. J Assist Reprod Genet. 2005 Jun;22(6):257–64.
18.       Xu B, Guo N, Zhang X min, Shi W, Tong X hong, Iqbal F, et al. Oocyte quality is decreased in women with minimal or mild endometriosis. Sci Rep. 2015 May 29;5:10779.
19.       Elevated prohibitin 1 expression mitigates glucose metabolism defects in granulosa cells of infertile patients with endometriosis - PubMed [Internet]. [cited 2024 May 27]. Available from: https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/35639746/
20.       Expression of neurokinin B/NK3 receptor and kisspeptin/KISS1 receptor in human granulosa cells | Human Reproduction | Oxford Academic [Internet]. [cited 2024 May 28]. Available from: https://academic.oup.com/humrep/article/29/12/2736/628936
21.       Blasco V, Pinto FM, Fernández-Atucha A, González-Ravina C, Fernández-Sánchez M, Candenas L. Female infertility is associated with an altered expression of the neurokinin B/neurokinin B receptor and kisspeptin/kisspeptin receptor systems in ovarian granulosa and cumulus cells. Fertil Steril. 2020 Oct;114(4):869–78.
 
 
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK