Tin chuyên ngành
on Wednesday 04-10-2023 12:12am
Danh mục: Vô sinh & hỗ trợ sinh sản
CNSH. Nguyễn Quỳnh Như
Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột
Sự phát triển phôi ngày 7 có thể bị ảnh hưởng bởi phương pháp thụ tinh, có sự khác biệt rõ ràng về thời gian giữa phương pháp IVF và ICSI. Thông thường đối với IVF sẽ cần nhiều thời gian hơn, một số trường hợp ghi nhận thời gian thụ tinh trong IVF có thể bị trì hoãn đến 12 giờ, điều này đã tác động đáng kể đến dòng thời gian phát triển của phôi.
Sự phát triển chậm của phôi còn có thể đến từ sự chậm trễ trong thời điểm phân chia đầu tiên. Thông thường các phôi sẽ phân chia lần đầu tiên khoảng 25-30 giờ, tuy nhiên một số trường hợp ghi nhận lần phân chia đầu tiên bị kéo dài đến 34 giờ. Sự chậm trễ này cũng làm kéo dài thời gian phân chia cho các lần tiếp theo và ảnh hưởng đến dòng thời gian phát triển của phôi từ rất sớm dẫn đến cần nhiều thời gian hơn để phôi đạt đến giai đoạn phôi nang. Ngoài ra, các phôi trải qua giai đoạn phân chia sớm bất thường như phân chia ngược, phân chia trực tiếp dẫn đến hiện tượng khảm phôi bào và làm chậm chu kỳ tế bào cũng là một trong các nguyên nhân làm chậm đi sự phát triển của phôi (5). Một số nghiên cứu còn ghi nhận một số phôi ở dạng khảm sẽ cần nhiều thời gian hơn để loại bỏ các tế bào mang NST bất thường, đây là một trong các cơ chế tự sửa sai của phôi giúp phôi phát triển đến giai đoạn phôi nang nhưng cũng đồng thời làm chậm đi tiến trình này (5,6). Một thời điểm quan trọng khác cũng góp phần là nguyên nhân khiến quá trình phát triển bị ngưng trệ đó là giai đoạn nén. Nhiều ý kiến cho rằng thời gian tối ưu để phôi nén hoàn toàn là trước 80 giờ, tuy nhiên quá trình này tương đối phức tạp do có sự kích hoạt bộ gen, biệt hoá ICM và TE do đó có thể kéo dài dẫn đến làm chậm tốc độ mở rộng của khoang phôi nang. Ngoài ra, một số yếu tố liên quan như tuổi mẹ, liều kích thích FSH, số chu kỳ điều trị, chất lượng giao tử có thể là những yếu tố kết hợp gây nên sự phát triển chậm ở phôi.
Mục tiêu cuối cùng của IVF là sinh một em bé khoẻ mạnh, do đó tỷ lệ trẻ sinh sống chính là chỉ số quan trọng đánh giá tiềm năng của phôi nang ngày 7. Năm 2016, Richter và cộng sự thực hiện nghiên cứu với cỡ mẫu lớn (484 chu kỳ) so sánh tỷ lệ sinh sống giữa phôi ngày 5, ngày 6 và ngày 7. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sinh sống phôi ngày 7 thấp nhất (11%) so với phôi nang ngày 5 (47%) và ngày 6 (46%) (10). Có cùng kết quả với Richter, một nghiên cứu khác cũng cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống sau chuyển phôi trữ ngày 7 được ghi nhận thấp hơn đáng kể so với phôi ngày 3, ngày 5 và ngày 6 (26,6% so với 42%; 50,7%; 44,7%, P<0,001) (11). Mặc dù phôi chậm ngày 7 giảm tỷ lệ trẻ sinh sống so với các phôi phát triển bình thường nhưng quan trọng là vẫn dẫn đến một ca sinh sống khoẻ mạnh.
Gần đây, tác giả Cimadomo và cộng sự đã báo cáo chuyển phôi nguyên bội phát triển chậm có xu hướng làm tăng tỷ lệ sẩy thai, tuy nhiên không có khác biệt về mặt thống kê. Tỷ lệ sẩy thai được ghi nhận 40% ở nhóm phôi phát triển trên 144 giờ so với 13% ở nhóm chứng phát triển dưới 120 giờ (12). Trước đó, một nghiên cứu đã ghi nhận phôi nang nguyên bội ngày 7 có thể gây tăng sẩy thai gấp 10 lần (22%) so với phôi nang nguyên bội ngày 5 (2%) (9). Dường như chuyển phôi phát triển chậm có xu hướng làm tăng tỷ lệ sẩy thai ở các nghiên cứu. Tuy nhiên cần đánh giá thận trọng hơn đối với kết quả này vì đến hiện tại các kết quả đến từ các nghiên cứu hồi cứu. Các nghiên cứu thường có cỡ mẫu tương đối nhỏ, đặc biệt đối với nhóm nghiên cứu chuyển phôi chậm cỡ mẫu thường rất ít. Ngoài ra kết quả cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác, phôi nang phát triển chậm được xem là lựa chọn cuối cùng đối với những bệnh nhân không có phôi nguyên bội phát triển đúng thời gian, điển hình cho nhóm bệnh nhân có tiên lượng kém.
Khi xem xét đến mức độ an toàn của chuyển phôi ngày 7 cần đánh giá trên sức khoẻ trẻ sinh sống, tuy vậy không thực sự có nhiều dữ liệu về sức khoẻ trẻ được ghi nhận. Một trong số ít nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Huang đã thực hiện so sánh kết quả sản khoa và chu sinh giữa phôi ngày 3,5,6 và ngày 7, nghiên cứu đã ghi nhận một số bất lợi sau chuyển phôi ngày 7. Các chu kỳ chuyển phôi ngày 7 có thể gây nguy cơ thai to so với tuổi thai cao hơn so với phôi phân chia (12,9% so với 6,1%, P= 0,034). Ngoài ra nghiên cứu còn ghi nhận xu hướng tỷ lệ tuổi thai < 37 tuần cao hơn và tỷ lệ cân nặng thai dưới bách phân vị 10 thấp hơn ở nhóm phôi chậm so với phôi ngày 3 (7,6% so với 3,9% và 2,2% so với 5,7%, P > 0,05). Các chỉ số sản khoa khác như tỷ lệ trẻ sinh non, trẻ nhẹ cân và thai nhỏ so với tuổi thai đều không ghi nhận sự khác biệt giữa các nhóm nghiên cứu (11). Như vậy, ngoài một số kết quả bất lợi so với phôi phân chia thì chuyển phôi nang ở các thời điểm ngày 5,6 hay ngày 7 đều có khả năng phát triển tương tự nhau. Một lần nữa chứng minh một em bé khoẻ mạnh hoàn toàn có thể đến từ phôi chậm ngày 7.
TLTK
1. Hammond ER, Cree LM, Morbeck DE. Should extended blastocyst culture include Day 7? Hum Reprod. 1 June 2018;33(6):991–7.
2. Cimadomo D, Capalbo A, Levi-Setti PE, Soscia D, Orlando G, Albani E, và c.s. Associations of blastocyst features, trophectoderm biopsy and other laboratory practice with post-warming behavior and implantation. Hum Reprod. 1 Nov 2018;33(11):1992–2001.
3. Tiegs A, Sun L, Neal S, Morin S, Werner M, Scott R. Worth the wait? Findings from culturing embros through day 7. Fertil Steril. 1 Tháng Mar 2018;109:e9.
4. Minasi MG, Colasante A, Riccio T, Ruberti A, Casciani V, Scarselli F, và c.s. Correlation between aneuploidy, standard morphology evaluation and morphokinetic development in 1730 biopsied blastocysts: a consecutive case series study. Hum Reprod. 1 Oct 2016;31(10):2245–54.
5. Barrie A, Homburg R, McDowell G, Brown J, Kingsland C, Troup S. Preliminary investigation of the prevalence and implantation potential of abnormal embryonic phenotypes assessed using time-lapse imaging. Reprod Biomed Online. May 2017;34(5):455–62.
6. Lagalla C, Tarozzi N, Sciajno R, Wells D, Di Santo M, Nadalini M, và c.s. Embryos with morphokinetic abnormalities may develop into euploid blastocysts. Reprod Biomed Online. 1 Jan 2017;34(2):137–46.
7. Whitney JB, Balloch K, Anderson RE, Nugent N, Schiewe MC. Day 7 blastocyst euploidy supports routine implementation for cycles using preimplantation genetic testing. JBRA Assist Reprod. 2019;23(1):45–50.
8. Hernandez-Nieto C, Lee JA, Slifkin R, Sandler B, Copperman AB, Flisser E. What is the reproductive potential of day 7 euploid embryos? Hum Reprod. 29 Sept 2019;34(9):1697–706.
9. Whitney JB, Anderson RE, Schiewe MC. Day 7 blastocyst euploidy and implantation rates warrant implentation for all programs using preimplantation genetic screening (PGS). Fertil Steril. 1 Sept 2016;106(3):e146.
10. Richter KS, Ginsburg DK, Shipley SK, Lim J, Tucker MJ, Graham JR, và c.s. Factors associated with birth outcomes from cryopreserved blastocysts: experience from 4,597 autologous transfers of 7,597 cryopreserved blastocysts. Fertil Steril. 1 Augt 2016;106(2):354-362.e2.
11. Huang J, Yang X, Wu J, Kuang Y, Wang Y. Impact of Day 7 Blastocyst Transfer on Obstetric and Perinatal Outcome of Singletons Born After Vitrified-Warmed Embryo Transfer. Front Physiol .
12. Cimadomo D, Soscia D, Casciani V, Innocenti F, Trio S, Chiappetta V, và c.s. How slow is too slow? A comprehensive portrait of Day 7 blastocysts and their clinical value standardized through artificial intelligence. Hum Reprod. 1 June 2022;37(6):1134–47.
Bệnh viện Đại học Y dược Buôn Ma Thuột
- Giới thiệu
- Cơ chế phôi phát triển chậm
Sự phát triển phôi ngày 7 có thể bị ảnh hưởng bởi phương pháp thụ tinh, có sự khác biệt rõ ràng về thời gian giữa phương pháp IVF và ICSI. Thông thường đối với IVF sẽ cần nhiều thời gian hơn, một số trường hợp ghi nhận thời gian thụ tinh trong IVF có thể bị trì hoãn đến 12 giờ, điều này đã tác động đáng kể đến dòng thời gian phát triển của phôi.
Sự phát triển chậm của phôi còn có thể đến từ sự chậm trễ trong thời điểm phân chia đầu tiên. Thông thường các phôi sẽ phân chia lần đầu tiên khoảng 25-30 giờ, tuy nhiên một số trường hợp ghi nhận lần phân chia đầu tiên bị kéo dài đến 34 giờ. Sự chậm trễ này cũng làm kéo dài thời gian phân chia cho các lần tiếp theo và ảnh hưởng đến dòng thời gian phát triển của phôi từ rất sớm dẫn đến cần nhiều thời gian hơn để phôi đạt đến giai đoạn phôi nang. Ngoài ra, các phôi trải qua giai đoạn phân chia sớm bất thường như phân chia ngược, phân chia trực tiếp dẫn đến hiện tượng khảm phôi bào và làm chậm chu kỳ tế bào cũng là một trong các nguyên nhân làm chậm đi sự phát triển của phôi (5). Một số nghiên cứu còn ghi nhận một số phôi ở dạng khảm sẽ cần nhiều thời gian hơn để loại bỏ các tế bào mang NST bất thường, đây là một trong các cơ chế tự sửa sai của phôi giúp phôi phát triển đến giai đoạn phôi nang nhưng cũng đồng thời làm chậm đi tiến trình này (5,6). Một thời điểm quan trọng khác cũng góp phần là nguyên nhân khiến quá trình phát triển bị ngưng trệ đó là giai đoạn nén. Nhiều ý kiến cho rằng thời gian tối ưu để phôi nén hoàn toàn là trước 80 giờ, tuy nhiên quá trình này tương đối phức tạp do có sự kích hoạt bộ gen, biệt hoá ICM và TE do đó có thể kéo dài dẫn đến làm chậm tốc độ mở rộng của khoang phôi nang. Ngoài ra, một số yếu tố liên quan như tuổi mẹ, liều kích thích FSH, số chu kỳ điều trị, chất lượng giao tử có thể là những yếu tố kết hợp gây nên sự phát triển chậm ở phôi.
- Giá trị lâm sàng
Mục tiêu cuối cùng của IVF là sinh một em bé khoẻ mạnh, do đó tỷ lệ trẻ sinh sống chính là chỉ số quan trọng đánh giá tiềm năng của phôi nang ngày 7. Năm 2016, Richter và cộng sự thực hiện nghiên cứu với cỡ mẫu lớn (484 chu kỳ) so sánh tỷ lệ sinh sống giữa phôi ngày 5, ngày 6 và ngày 7. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sinh sống phôi ngày 7 thấp nhất (11%) so với phôi nang ngày 5 (47%) và ngày 6 (46%) (10). Có cùng kết quả với Richter, một nghiên cứu khác cũng cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống sau chuyển phôi trữ ngày 7 được ghi nhận thấp hơn đáng kể so với phôi ngày 3, ngày 5 và ngày 6 (26,6% so với 42%; 50,7%; 44,7%, P<0,001) (11). Mặc dù phôi chậm ngày 7 giảm tỷ lệ trẻ sinh sống so với các phôi phát triển bình thường nhưng quan trọng là vẫn dẫn đến một ca sinh sống khoẻ mạnh.
- Tính an toàn của phôi ngày 7
Gần đây, tác giả Cimadomo và cộng sự đã báo cáo chuyển phôi nguyên bội phát triển chậm có xu hướng làm tăng tỷ lệ sẩy thai, tuy nhiên không có khác biệt về mặt thống kê. Tỷ lệ sẩy thai được ghi nhận 40% ở nhóm phôi phát triển trên 144 giờ so với 13% ở nhóm chứng phát triển dưới 120 giờ (12). Trước đó, một nghiên cứu đã ghi nhận phôi nang nguyên bội ngày 7 có thể gây tăng sẩy thai gấp 10 lần (22%) so với phôi nang nguyên bội ngày 5 (2%) (9). Dường như chuyển phôi phát triển chậm có xu hướng làm tăng tỷ lệ sẩy thai ở các nghiên cứu. Tuy nhiên cần đánh giá thận trọng hơn đối với kết quả này vì đến hiện tại các kết quả đến từ các nghiên cứu hồi cứu. Các nghiên cứu thường có cỡ mẫu tương đối nhỏ, đặc biệt đối với nhóm nghiên cứu chuyển phôi chậm cỡ mẫu thường rất ít. Ngoài ra kết quả cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác, phôi nang phát triển chậm được xem là lựa chọn cuối cùng đối với những bệnh nhân không có phôi nguyên bội phát triển đúng thời gian, điển hình cho nhóm bệnh nhân có tiên lượng kém.
Khi xem xét đến mức độ an toàn của chuyển phôi ngày 7 cần đánh giá trên sức khoẻ trẻ sinh sống, tuy vậy không thực sự có nhiều dữ liệu về sức khoẻ trẻ được ghi nhận. Một trong số ít nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Huang đã thực hiện so sánh kết quả sản khoa và chu sinh giữa phôi ngày 3,5,6 và ngày 7, nghiên cứu đã ghi nhận một số bất lợi sau chuyển phôi ngày 7. Các chu kỳ chuyển phôi ngày 7 có thể gây nguy cơ thai to so với tuổi thai cao hơn so với phôi phân chia (12,9% so với 6,1%, P= 0,034). Ngoài ra nghiên cứu còn ghi nhận xu hướng tỷ lệ tuổi thai < 37 tuần cao hơn và tỷ lệ cân nặng thai dưới bách phân vị 10 thấp hơn ở nhóm phôi chậm so với phôi ngày 3 (7,6% so với 3,9% và 2,2% so với 5,7%, P > 0,05). Các chỉ số sản khoa khác như tỷ lệ trẻ sinh non, trẻ nhẹ cân và thai nhỏ so với tuổi thai đều không ghi nhận sự khác biệt giữa các nhóm nghiên cứu (11). Như vậy, ngoài một số kết quả bất lợi so với phôi phân chia thì chuyển phôi nang ở các thời điểm ngày 5,6 hay ngày 7 đều có khả năng phát triển tương tự nhau. Một lần nữa chứng minh một em bé khoẻ mạnh hoàn toàn có thể đến từ phôi chậm ngày 7.
- Kết luận
TLTK
1. Hammond ER, Cree LM, Morbeck DE. Should extended blastocyst culture include Day 7? Hum Reprod. 1 June 2018;33(6):991–7.
2. Cimadomo D, Capalbo A, Levi-Setti PE, Soscia D, Orlando G, Albani E, và c.s. Associations of blastocyst features, trophectoderm biopsy and other laboratory practice with post-warming behavior and implantation. Hum Reprod. 1 Nov 2018;33(11):1992–2001.
3. Tiegs A, Sun L, Neal S, Morin S, Werner M, Scott R. Worth the wait? Findings from culturing embros through day 7. Fertil Steril. 1 Tháng Mar 2018;109:e9.
4. Minasi MG, Colasante A, Riccio T, Ruberti A, Casciani V, Scarselli F, và c.s. Correlation between aneuploidy, standard morphology evaluation and morphokinetic development in 1730 biopsied blastocysts: a consecutive case series study. Hum Reprod. 1 Oct 2016;31(10):2245–54.
5. Barrie A, Homburg R, McDowell G, Brown J, Kingsland C, Troup S. Preliminary investigation of the prevalence and implantation potential of abnormal embryonic phenotypes assessed using time-lapse imaging. Reprod Biomed Online. May 2017;34(5):455–62.
6. Lagalla C, Tarozzi N, Sciajno R, Wells D, Di Santo M, Nadalini M, và c.s. Embryos with morphokinetic abnormalities may develop into euploid blastocysts. Reprod Biomed Online. 1 Jan 2017;34(2):137–46.
7. Whitney JB, Balloch K, Anderson RE, Nugent N, Schiewe MC. Day 7 blastocyst euploidy supports routine implementation for cycles using preimplantation genetic testing. JBRA Assist Reprod. 2019;23(1):45–50.
8. Hernandez-Nieto C, Lee JA, Slifkin R, Sandler B, Copperman AB, Flisser E. What is the reproductive potential of day 7 euploid embryos? Hum Reprod. 29 Sept 2019;34(9):1697–706.
9. Whitney JB, Anderson RE, Schiewe MC. Day 7 blastocyst euploidy and implantation rates warrant implentation for all programs using preimplantation genetic screening (PGS). Fertil Steril. 1 Sept 2016;106(3):e146.
10. Richter KS, Ginsburg DK, Shipley SK, Lim J, Tucker MJ, Graham JR, và c.s. Factors associated with birth outcomes from cryopreserved blastocysts: experience from 4,597 autologous transfers of 7,597 cryopreserved blastocysts. Fertil Steril. 1 Augt 2016;106(2):354-362.e2.
11. Huang J, Yang X, Wu J, Kuang Y, Wang Y. Impact of Day 7 Blastocyst Transfer on Obstetric and Perinatal Outcome of Singletons Born After Vitrified-Warmed Embryo Transfer. Front Physiol .
12. Cimadomo D, Soscia D, Casciani V, Innocenti F, Trio S, Chiappetta V, và c.s. How slow is too slow? A comprehensive portrait of Day 7 blastocysts and their clinical value standardized through artificial intelligence. Hum Reprod. 1 June 2022;37(6):1134–47.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tác động của kỹ thuật sinh thiết phôi nang đến kết quả di truyền - Ngày đăng: 04-10-2023
Collapse: yếu tố tiên lượng khả năng phát triển của phôi nang - Ngày đăng: 04-10-2023
Kết quả lâm sàng khi chuyển phôi đông lạnh sử dụng phôi có phôi bào thoái hoá sau rã đông - Ngày đăng: 06-08-2023
Cường độ hoạt động thể chất và khả năng sinh sản ở nữ giới - Ngày đăng: 12-07-2023
Xu hướng có con trễ có ảnh hướng đến tâm lý, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và sự phát triển của trẻ hay không? - Ngày đăng: 12-07-2023
Cải thiện sự phát triển của phôi nang khi nuôi cấy trong hệ thống tủ time-lapse - Ngày đăng: 10-07-2023
Tầm ảnh hưởng của kỹ thuật thụ tinh đến kết quả di truyền của phôi tiền làm tổ - Ngày đăng: 10-07-2023
Hiệu quả điều trị IVM ở bệnh nhân hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 06-06-2023
Những dấu ấn sinh học trong dịch nang có thể tiên lượng điều trị IVF - Ngày đăng: 06-06-2023
Vai trò của thể cực trong hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 22-05-2023
Vai trò của chất chống oxy hóa trong điều trị vô sinh nam - Ngày đăng: 13-03-2023
Cơ chế hình thành và cách đánh giá thể khảm trong phôi IVF - Ngày đăng: 03-02-2023
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK