Tin tức
on Tuesday 26-10-2021 5:01pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Như Quỳnh – IVF Vạn Hạnh
Lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng (endometrioma) ảnh hưởng đến 17% - 44% phụ nữ, họ phải đối mặt với nhiều triệu chứng như đau bụng liên quan đến chu kì kinh nguyệt, đau trong quá trình quan hệ hay bị đau mạn tính ở vùng xương chậu. Những triệu chứng này cũng đồng thời phổ biến ở những bệnh nhân bị lạc nội mạc tử cung ở phúc mạc chậu (endometriosis). Mặc dù đã có nhiều giả thiết đề cập đến mối quan hệ giữa lạc nội mạc tử cung và việc thay đổi các tỉ lệ liên quan đến sinh sản, tuy nhiên, ảnh hưởng của lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng đến khả năng sinh sản của phụ nữ vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa thể thống nhất.
Lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng gây khiếm khuyết quá trình sinh sản do làm giảm số lượng noãn, số lượng noãn chọc hút được, chất lượng phôi, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai lâm sàng. Các nghiên cứu khác chỉ ra nguyên nhân chính dẫn đến vô sinh là do lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng dẫn đến khiếm khuyết miễn dịch và sai lệch chức năng giải phẫu của buồng trứng thứ cấp. Tuy nhiên, chất lượng noãn là yếu tố chính liên quan đến vô sinh ở những bệnh nhân bị lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả hướng đến mục tiêu đánh giá ảnh hưởng của lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng đến hình thái noãn và sự phát triển phôi ở các chu kì thực hiện tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI).
Thông tin bệnh nhân được ghi nhận bằng cách hồi cứu từ tháng 8/2015 đến tháng 12/2017. Những bệnh nhân được nhận trong nghiên cứu có độ tuổi từ 20 tuổi đến 38 tuổi. Trường hợp bệnh nhân có kết quả tinh dịch đồ bình thường, nồng độ các hormone ở ngưỡng bình thường, có phóng noãn và kết quả siêu âm bình thường thì được xác định là vô sinh không rõ nguyên nhân. Nghiên cứu phân tích thông tin của 114 chu kì ICSI với tổng cộng 644 noãn trưởng thành. Bệnh nhân được chẩn đoán lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng trước khi bắt đầu chu kì điều trị. Những khối u có dạng hình tròn với kích thước đường kính tối thiểu 10 mm được định nghĩa là u nang nội mạc tử cung, thành dày, bờ đều, bên trong chứa dịch đồng nhất. Các tổn thương phải được ghi nhận ít nhất 2 lần trong 2 tháng. Nhóm đối chứng trong nghiên cứu gồm các đối tượng vô sinh không rõ nguyên nhân nhưng không có lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu đều tương đồng về đặc điểm dân số và đặc điểm lâm sàng như tuổi tác, thời gian vô sinh, chỉ số cơ thể và khả năng đáp ứng buồng trứng. Khối u nhỏ nhất và lớn nhất ghi nhận được trong nghiên cứu với kích thước đường kính lần lượt là 1 cm và 5 cm. Liều gonadotropin trung bình sử dụng để kích thích buồng trứng ở nhóm lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng cao hơn rõ rệt so với nhóm đối chứng. Mặt khác, số lượng noãn tổng cộng và số lượng noãn trưởng thành ở nhóm đối chứng nhiều hơn nhóm nghiên cứu (P < 0,05). Tỉ lệ các bất thường hình thái noãn quan sát được ở 2 nhóm như xuất hiện không bào, tế bào chất đậm màu hay màng trong suốt dày là tương đương nhau, tuy nhiên, tỉ lệ các hạt phân bố ở vị trí trung tâm noãn ở nhóm có lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng cao hơn nhóm đối chứng (0,464 ± 0,421 và 0,380 ± 0,864; P < 0,05). Tỉ lệ noãn thụ tinh không khác biệt ở 2 nhóm (63,14% ± 22,84 và 70,95% ± 28,26, P = 0,1), tuy nhiên, số lượng phôi ở nhóm lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng thấp hơn nhóm đối chứng (3,12 ± 2,24 và 3,95 ± 2,17; P = 0,02).
Như vậy, từ những dữ liệu phân tích được, nghiên cứu đã chỉ ra rằng: tỉ lệ thụ tinh không khác biệt giữa 2 nhóm bệnh nhân, nhưng vẫn ghi nhận được lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng có liên quan đến sự phân bố các hạt ở vùng trung tâm của noãn. Đồng thời, số lượng noãn trưởng thành và số phôi ở nhóm chẩn đoán bị lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng cũng thấp hơn những bệnh nhân vô sinh không rõ nguyên nhân nhưng không bị lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng.
Lược dịch từ: Bilgic, B.E., Kurek Eken, M., Ayla, Ş., Kose, A., Kutlu, T. and İlhan, G., 2021. The rate of oocytes with granular cytoplasm is higher in women with endometrioma in ICSI cycles. Journal of Obstetrics and Gynaecology, pp.1-5.
Lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng (endometrioma) ảnh hưởng đến 17% - 44% phụ nữ, họ phải đối mặt với nhiều triệu chứng như đau bụng liên quan đến chu kì kinh nguyệt, đau trong quá trình quan hệ hay bị đau mạn tính ở vùng xương chậu. Những triệu chứng này cũng đồng thời phổ biến ở những bệnh nhân bị lạc nội mạc tử cung ở phúc mạc chậu (endometriosis). Mặc dù đã có nhiều giả thiết đề cập đến mối quan hệ giữa lạc nội mạc tử cung và việc thay đổi các tỉ lệ liên quan đến sinh sản, tuy nhiên, ảnh hưởng của lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng đến khả năng sinh sản của phụ nữ vẫn còn nhiều tranh cãi và chưa thể thống nhất.
Lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng gây khiếm khuyết quá trình sinh sản do làm giảm số lượng noãn, số lượng noãn chọc hút được, chất lượng phôi, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai lâm sàng. Các nghiên cứu khác chỉ ra nguyên nhân chính dẫn đến vô sinh là do lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng dẫn đến khiếm khuyết miễn dịch và sai lệch chức năng giải phẫu của buồng trứng thứ cấp. Tuy nhiên, chất lượng noãn là yếu tố chính liên quan đến vô sinh ở những bệnh nhân bị lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả hướng đến mục tiêu đánh giá ảnh hưởng của lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng đến hình thái noãn và sự phát triển phôi ở các chu kì thực hiện tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection – ICSI).
Thông tin bệnh nhân được ghi nhận bằng cách hồi cứu từ tháng 8/2015 đến tháng 12/2017. Những bệnh nhân được nhận trong nghiên cứu có độ tuổi từ 20 tuổi đến 38 tuổi. Trường hợp bệnh nhân có kết quả tinh dịch đồ bình thường, nồng độ các hormone ở ngưỡng bình thường, có phóng noãn và kết quả siêu âm bình thường thì được xác định là vô sinh không rõ nguyên nhân. Nghiên cứu phân tích thông tin của 114 chu kì ICSI với tổng cộng 644 noãn trưởng thành. Bệnh nhân được chẩn đoán lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng trước khi bắt đầu chu kì điều trị. Những khối u có dạng hình tròn với kích thước đường kính tối thiểu 10 mm được định nghĩa là u nang nội mạc tử cung, thành dày, bờ đều, bên trong chứa dịch đồng nhất. Các tổn thương phải được ghi nhận ít nhất 2 lần trong 2 tháng. Nhóm đối chứng trong nghiên cứu gồm các đối tượng vô sinh không rõ nguyên nhân nhưng không có lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu đều tương đồng về đặc điểm dân số và đặc điểm lâm sàng như tuổi tác, thời gian vô sinh, chỉ số cơ thể và khả năng đáp ứng buồng trứng. Khối u nhỏ nhất và lớn nhất ghi nhận được trong nghiên cứu với kích thước đường kính lần lượt là 1 cm và 5 cm. Liều gonadotropin trung bình sử dụng để kích thích buồng trứng ở nhóm lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng cao hơn rõ rệt so với nhóm đối chứng. Mặt khác, số lượng noãn tổng cộng và số lượng noãn trưởng thành ở nhóm đối chứng nhiều hơn nhóm nghiên cứu (P < 0,05). Tỉ lệ các bất thường hình thái noãn quan sát được ở 2 nhóm như xuất hiện không bào, tế bào chất đậm màu hay màng trong suốt dày là tương đương nhau, tuy nhiên, tỉ lệ các hạt phân bố ở vị trí trung tâm noãn ở nhóm có lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng cao hơn nhóm đối chứng (0,464 ± 0,421 và 0,380 ± 0,864; P < 0,05). Tỉ lệ noãn thụ tinh không khác biệt ở 2 nhóm (63,14% ± 22,84 và 70,95% ± 28,26, P = 0,1), tuy nhiên, số lượng phôi ở nhóm lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng thấp hơn nhóm đối chứng (3,12 ± 2,24 và 3,95 ± 2,17; P = 0,02).
Như vậy, từ những dữ liệu phân tích được, nghiên cứu đã chỉ ra rằng: tỉ lệ thụ tinh không khác biệt giữa 2 nhóm bệnh nhân, nhưng vẫn ghi nhận được lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng có liên quan đến sự phân bố các hạt ở vùng trung tâm của noãn. Đồng thời, số lượng noãn trưởng thành và số phôi ở nhóm chẩn đoán bị lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng cũng thấp hơn những bệnh nhân vô sinh không rõ nguyên nhân nhưng không bị lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng.
Lược dịch từ: Bilgic, B.E., Kurek Eken, M., Ayla, Ş., Kose, A., Kutlu, T. and İlhan, G., 2021. The rate of oocytes with granular cytoplasm is higher in women with endometrioma in ICSI cycles. Journal of Obstetrics and Gynaecology, pp.1-5.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Cập nhật mới về ảnh hưởng của COVID-19 đối với sinh sản nam giới - Ngày đăng: 26-10-2021
SARS-CoV-2 và nhau thai: những quan điểm mới - Ngày đăng: 26-10-2021
Can thiệp cải thiện lối sống trước khi thụ tinh ống nghiệm không cải thiện chất lượng phôi và tỷ lệ sinh sống tích lũy ở nhóm phụ nữ béo phì: một nghiên cứu đoàn hệ - Ngày đăng: 26-10-2021
Chuyển động tự nhiên của phôi (enMotion): một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên ghép đôi đánh giá hệ thống nuôi cấy phôi động - Ngày đăng: 22-10-2021
Sự hiện diện của trí tuệ nhân tạo liệu có cần thiết? Thuật toán trí tuệ nhân tạo giúp chuyên viên phôi học lựa chọn phôi có tiềm năng làm tổ tốt hơn - Ngày đăng: 22-10-2021
Đông lạnh tinh trùng trong hơi nitơ lỏng bằng phương pháp thủy tinh hóa không sử dụng chất bảo vệ đông lạnh: Tác động có lợi của nhiệt độ cao trong rã đông - Ngày đăng: 21-10-2021
Số lượng phôi bào tối ưu và mối liên hệ với kết quả thai và tỉ lệ đa thai ở các chu kì chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 21-10-2021
Không tìm thấy SARS-CoV-2 trong mẫu nước tiểu, dịch tiết tuyến tiền liệt và tinh dịch ở 74 người đàn ông hồi phục sau nhiễm Covid - Ngày đăng: 21-10-2021
Tiền xử lý mô buồng trứng bằng collagenase trước khi thủy tinh hóa giúp duy trì các liên kết tế bào trong các nang buồng trứng - Ngày đăng: 19-10-2021
Tăng nguy cơ biến chứng ở mẹ và trẻ sơ sinh trong các chu kỳ điều trị hormone thay thế trong chuyển phôi đông lạnh - Ngày đăng: 19-10-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK