Tin tức
on Saturday 27-02-2021 9:36am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Cẩm Nhung – IVFMD Tân Bình
Hiện nay, đánh giá phôi thông qua hình thái hoặc qua theo dõi động học phát triển của phôi là những phương pháp phổ biến được sử dụng để phân loại và chọn lọc phôi. Tuy nhiên những phương pháp này không thể đánh giá chính xác được tính toàn vẹn của vật chất di truyền. Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ sàng lọc phôi lệch bội (PGT-A) hiện vẫn là tiêu chuẩn vàng trong việc sàng lọc tình trạng di truyền của phôi. Với PGT-A, các phôi nguyên bội có thể được chọn lựa để chuyển, giúp tăng tỷ lệ làm tổ, giảm thất bại làm tổ nhiều lần và giảm các dị tật bẩm sinh cho trẻ.
Tuổi mẹ là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự lệch bội của phôi. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, tỷ lệ phôi lệch bội tăng theo tuổi mẹ, nguyên nhân là do có sự giảm cả về mặt chất lượng cũng như số lượng noãn bào ở những phụ nữ lớn tuổi. Tuy nhiên, người ta thấy rằng tỷ lệ phôi lệch bội cũng cao ở những chu kỳ xin và cho noãn trên những bệnh nhân trẻ tuổi. Vì vậy, phải có các yếu tố khác ngoài tuổi mẹ liên quan đến tình trạng lệch bội của phôi. Một trong những yếu tố có thể là do quá trình thụ tinh nhân tạo làm phá vỡ quá trình giảm phân bình thường, gây ra các lỗi phân bào và cuối cùng dẫn đến sự hình thành phôi lệch bội.
Niu và cộng sự đã báo cáo một trường hợp bệnh nhân được điều trị IVF với noãn của người hiến tặng trẻ tuổi, một nửa noãn bào được thụ tinh bằng IVF cổ điển và nửa còn lại được thụ tinh bởi ICSI. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng tỷ lệ phôi lệch bội có sự khác nhau giữa hai quy trình thụ tinh, do đó nhóm đã báo cáo trường hợp này nhằm cung cấp thêm thông tin có ý nghĩa đối với các bác sĩ và các chuyên viên phôi học.
Phương pháp: Báo cáo một trường hợp này ghi nhận một bệnh nhân 47 tuổi thực hiện chu kỳ xin-cho noãn của một phụ nữ trẻ tuổi để điều trị vô sinh. Một nửa noãn bào được thụ tinh bằng IVF cổ điển và nửa còn lại được thụ tinh bằng ICSI. Noãn thụ tinh được nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang và sau đó sinh thiết để xét nghiệm PGT-A. Tỷ lệ phôi lệch bội được so sánh giữa hai quy trình IVF và ICSI.
Kết quả
Tổng cộng có 47 khối OCC được chọc hút, trong đó 23 khối OCC được thụ tinh bằng IVF cổ điển và 24 khối OCC được ICSI. Sau khi tách 24 khối OCC để ICSI có 21 noãn MII đủ điều kiện để thụ tinh. Có 19 trong số 21 noãn được thụ tinh bằng kỹ thuật ICSI thụ tinh bình thường, trong đó có 14 phôi nang được sinh thiết (73,7%) và 7 (50,0%) phôi lệch bội. Có 12 trong số 23 noãn thụ tinh bình thường nhờ kỹ thuật IVF cổ điển. Chín phôi nang (75%) được sinh thiết và có 1 (11,1%) phôi lệch bội. Bệnh nhân xin noãn đã được tiến hành chuyển một phôi nang thụ tinh bằng IVF cổ điển và đã sinh được một em bé khỏe mạnh.
Kết luận
Báo cáo một trường hợp này cho thấy có nhiều phôi lệch bội được tạo ra bởi kỹ thuật ICSI hơn so với IVF cổ điển. Nhóm nghiên cứu cho rằng quá trình loại bỏ tế bào cumulus, sự thay đổi nhiệt độ trong quá trình ICSI và thậm chí là thao tác tiêm tinh trùng vào bào tương của noãn có thể gây ra xáo trộn tại noãn bào và có thể là một trong những lý do gây ra phôi lệch bội trong thụ tinh trong ống nghiệm.
Nguồn: Niu, X., J. Long, F. Gong & W. J. M. C. Wang (2020) Does ICSI for in vitro fertilization cause more aneuploid embryos? Molecular Cytogenetics 13, 1-7. https://doi.org/10.1186/s13039-020-00497-z
Hiện nay, đánh giá phôi thông qua hình thái hoặc qua theo dõi động học phát triển của phôi là những phương pháp phổ biến được sử dụng để phân loại và chọn lọc phôi. Tuy nhiên những phương pháp này không thể đánh giá chính xác được tính toàn vẹn của vật chất di truyền. Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ sàng lọc phôi lệch bội (PGT-A) hiện vẫn là tiêu chuẩn vàng trong việc sàng lọc tình trạng di truyền của phôi. Với PGT-A, các phôi nguyên bội có thể được chọn lựa để chuyển, giúp tăng tỷ lệ làm tổ, giảm thất bại làm tổ nhiều lần và giảm các dị tật bẩm sinh cho trẻ.
Tuổi mẹ là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự lệch bội của phôi. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, tỷ lệ phôi lệch bội tăng theo tuổi mẹ, nguyên nhân là do có sự giảm cả về mặt chất lượng cũng như số lượng noãn bào ở những phụ nữ lớn tuổi. Tuy nhiên, người ta thấy rằng tỷ lệ phôi lệch bội cũng cao ở những chu kỳ xin và cho noãn trên những bệnh nhân trẻ tuổi. Vì vậy, phải có các yếu tố khác ngoài tuổi mẹ liên quan đến tình trạng lệch bội của phôi. Một trong những yếu tố có thể là do quá trình thụ tinh nhân tạo làm phá vỡ quá trình giảm phân bình thường, gây ra các lỗi phân bào và cuối cùng dẫn đến sự hình thành phôi lệch bội.
Niu và cộng sự đã báo cáo một trường hợp bệnh nhân được điều trị IVF với noãn của người hiến tặng trẻ tuổi, một nửa noãn bào được thụ tinh bằng IVF cổ điển và nửa còn lại được thụ tinh bởi ICSI. Nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng tỷ lệ phôi lệch bội có sự khác nhau giữa hai quy trình thụ tinh, do đó nhóm đã báo cáo trường hợp này nhằm cung cấp thêm thông tin có ý nghĩa đối với các bác sĩ và các chuyên viên phôi học.
Phương pháp: Báo cáo một trường hợp này ghi nhận một bệnh nhân 47 tuổi thực hiện chu kỳ xin-cho noãn của một phụ nữ trẻ tuổi để điều trị vô sinh. Một nửa noãn bào được thụ tinh bằng IVF cổ điển và nửa còn lại được thụ tinh bằng ICSI. Noãn thụ tinh được nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang và sau đó sinh thiết để xét nghiệm PGT-A. Tỷ lệ phôi lệch bội được so sánh giữa hai quy trình IVF và ICSI.
Kết quả
Tổng cộng có 47 khối OCC được chọc hút, trong đó 23 khối OCC được thụ tinh bằng IVF cổ điển và 24 khối OCC được ICSI. Sau khi tách 24 khối OCC để ICSI có 21 noãn MII đủ điều kiện để thụ tinh. Có 19 trong số 21 noãn được thụ tinh bằng kỹ thuật ICSI thụ tinh bình thường, trong đó có 14 phôi nang được sinh thiết (73,7%) và 7 (50,0%) phôi lệch bội. Có 12 trong số 23 noãn thụ tinh bình thường nhờ kỹ thuật IVF cổ điển. Chín phôi nang (75%) được sinh thiết và có 1 (11,1%) phôi lệch bội. Bệnh nhân xin noãn đã được tiến hành chuyển một phôi nang thụ tinh bằng IVF cổ điển và đã sinh được một em bé khỏe mạnh.
Kết luận
Báo cáo một trường hợp này cho thấy có nhiều phôi lệch bội được tạo ra bởi kỹ thuật ICSI hơn so với IVF cổ điển. Nhóm nghiên cứu cho rằng quá trình loại bỏ tế bào cumulus, sự thay đổi nhiệt độ trong quá trình ICSI và thậm chí là thao tác tiêm tinh trùng vào bào tương của noãn có thể gây ra xáo trộn tại noãn bào và có thể là một trong những lý do gây ra phôi lệch bội trong thụ tinh trong ống nghiệm.
Nguồn: Niu, X., J. Long, F. Gong & W. J. M. C. Wang (2020) Does ICSI for in vitro fertilization cause more aneuploid embryos? Molecular Cytogenetics 13, 1-7. https://doi.org/10.1186/s13039-020-00497-z
Các tin khác cùng chuyên mục:
THỜI GIAN ĐÔNG LẠNH PHÔI NANG TỐI ƯU SAU KHI SINH THIẾT LÁ NUÔI PHÔI CHO XÉT NGHIỆM DI TRUYỀN TIỀN LÀM TỔ - Ngày đăng: 19-02-2021
Tỷ lệ làm tổ tăng khi truyền vào tử cung một lượng nhỏ human Chorionic Gonadotropin (hCG) tại thời điểm chuyển phôi - Ngày đăng: 19-02-2021
So sánh ảnh hưởng của sitagliptin và metformin đối với chất lượng noãn và phôi ở bệnh nhân PCOS cổ điển thực hiện ICSI - Ngày đăng: 19-02-2021
SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỘ PHÂN MẢNH VÀ TỈ LỆ DỊ BỘI CỦA PHÔI - Ngày đăng: 06-02-2021
HPV và nguy cơ vô sinh ở nữ giới? - Ngày đăng: 06-02-2021
CHIẾN LƯỢC TẦM SOÁT MẠCH MÁU TIỀN ĐẠO - VASA PREVIA - Ngày đăng: 06-02-2021
TỔNG QUAN HỆ THỐNG VÀ PHÂN TÍCH GỘP VỀ KẾT CỤC CHU SINH CỦA THAI KỲ CÓ HỘI CHỨNG THIẾU MÁU – ĐA HỒNG CẦU SONG THAI (Twin anemia – polycythemia sequence - TAPS) - Ngày đăng: 06-02-2021
Rối loạn hệ vi sinh vật trong nội mạc tử cung có ảnh hưởng đến sự làm tổ của phôi hay không? - Ngày đăng: 06-02-2021
Phân đoạn DNA tự do ngoài tế bào của thai trong các thai kỳ sau chuyển phôi tươi hoặc chuyển phôi đông lạnh - Ngày đăng: 05-02-2021
Phơi nhiễm bụi mịn trong môi trường xung quanh và chất lượng tinh dịch ở Đài Loan - Ngày đăng: 01-02-2021
Ảnh hưởng của phơi nhiễm bụi mịn lên chất lượng tinh dịch: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 01-02-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK