Tin tức
on Friday 19-02-2021 9:42am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Bình Dương
Hiện nay, thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization - IVF) và tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intra-cytoplasmic Sperm Injection - ICSI) là những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mang lại tỷ lệ thành công cao ở những căp vợ chồng hiếm muộn. Tuy nhiên, vẫn có một số bệnh nhân không thành công. Kết quả làm tổ của phôi phụ thuộc vào một loạt các yếu tố liên quan đến nội mạc tử cung, chất lượng phôi và kỹ thuật chuyển phôi (Embryo transfer - ET). Điểm quan trọng của ET là đặt phôi chất lượng 'tốt nhất' vào đúng vị trí của khoang nội mạc tử cung trong cửa sổ làm tổ tối ưu. Làm tổ trong nội mạc tử cung là một quá trình cực kỳ phức tạp nhưng được phối hợp nhịp nhàng. Quy trình này được điều chỉnh bởi nhiều yếu tố, bao gồm hormone, cytokine, yếu tố phiên mã, yếu tố tăng trưởng và protein. Hai tín hiệu phôi sớm được tìm thấy là human chorionic gonadotropin (hCG) và interleukin (IL) -1. Trong đó, hCG được cho là quan trọng nhất. Nó là một loại hormone nhau thai cần thiết để duy trì một thai kỳ bình thường. Một số nghiên cứu đã thực hiện truyền trực tiếp hCG vào nội mạc tử cung và nhận thấy rằng việc truyền hCG vào bên trong khoang tử cung ngay trước ET có thể sẽ kích thích sản xuất các cytokine liên quan đến sự kết dính và làm tổ của phôi, đồng thời giúp tăng cường khả năng làm tổ và cải thiện kết quả thai trong các chu kỳ ICSI. Một số nghiên cứu đã đánh giá lợi ích của truyền hCG vào tử cung với kết quả thai, hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy khả năng làm tổ và tỷ lệ thai diễn tiến sau chuyển phôi nang được cải thiện sau khi truyền hCG vào nội mạc tử cung. Tuy nhiên, phân tích gộp của Osman và cộng sự cho thấy không có bất kỳ lợi ích nào của việc truyền hCG đối với tỷ lệ sinh sống hoặc tỷ lệ sẩy thai tự nhiên. Vì vậy, các nghiên cứu sâu hơn là cần thiết. Do đó, Pitak Laokirkkiat và cộng sự tiến hành một thử nghiêm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng nhằm đánh giá hiệu quả của việc truyền 10 μL hCG vào tử cung ngay trước ET trong cả chu kỳ chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ.
Nghiên cứu thực hiện trên những phụ nữ hiếm muộn có chu kỳ ET tươi hoặc đông lạnh-rã đông và ngẫu nhiên chia thành 2 nhóm (n = 100 mỗi nhóm). Nhóm 1 là nhóm sử dụng hCG, ở nhóm này 500 IU hCG trong 10 µL môi trường nuôi cấy được truyền vào buồng tử cung bằng cách sử dụng một catheter mềm vào 4 phút trước ET. Nhóm 2 là nhóm đối chứng, chỉ nhận 10 µL môi trường nuôi cấy bằng kỹ thuật tương tự. Kết quả chính của nghiên cứu là tỷ lệ làm tổ. Kết quả phụ là tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống.
Kết quả cho thấy, tỷ lệ làm tổ cao hơn đáng kể ở nhóm hCG so với nhóm chứng (28,8% so với 18,2%, p = 0,030). Tỷ lệ thai lâm sàng tương tự nhau ở cả hai nhóm (42% so với 30%, p = 0,077). Tỷ lệ sinh sống cũng tương tự nhau ở cả hai nhóm (29% và 23% ở nhóm hCG và nhóm chứng).
Nghiên cứu cho thấy truyền vào tử cung một lượng nhỏ hCG tại thời điểm ET có thể cải thiện đáng kể tỷ lệ làm tổ, trong khi tỷ lệ thai lâm sàng chỉ có thể được cải thiện ở những bệnh nhân trẻ hơn (<40 tuổi). Do đó, kỹ thuật này có thể mang lại lợi ích cho những bệnh nhân đang điều trị vô sinh.
Tài liệu tham khảo: Pitak Laokirkkiat, Isarin Thanaboonyawat, Savinee Boonsuk et al. Increased implantation rate after intrauterine infusion of a small volume of human chorionic gonadotropin at the time of embryo transfer: a randomized, double‑blind controlled study. Archives of Gynecology and Obstetrics. 2018.
Hiện nay, thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization - IVF) và tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intra-cytoplasmic Sperm Injection - ICSI) là những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mang lại tỷ lệ thành công cao ở những căp vợ chồng hiếm muộn. Tuy nhiên, vẫn có một số bệnh nhân không thành công. Kết quả làm tổ của phôi phụ thuộc vào một loạt các yếu tố liên quan đến nội mạc tử cung, chất lượng phôi và kỹ thuật chuyển phôi (Embryo transfer - ET). Điểm quan trọng của ET là đặt phôi chất lượng 'tốt nhất' vào đúng vị trí của khoang nội mạc tử cung trong cửa sổ làm tổ tối ưu. Làm tổ trong nội mạc tử cung là một quá trình cực kỳ phức tạp nhưng được phối hợp nhịp nhàng. Quy trình này được điều chỉnh bởi nhiều yếu tố, bao gồm hormone, cytokine, yếu tố phiên mã, yếu tố tăng trưởng và protein. Hai tín hiệu phôi sớm được tìm thấy là human chorionic gonadotropin (hCG) và interleukin (IL) -1. Trong đó, hCG được cho là quan trọng nhất. Nó là một loại hormone nhau thai cần thiết để duy trì một thai kỳ bình thường. Một số nghiên cứu đã thực hiện truyền trực tiếp hCG vào nội mạc tử cung và nhận thấy rằng việc truyền hCG vào bên trong khoang tử cung ngay trước ET có thể sẽ kích thích sản xuất các cytokine liên quan đến sự kết dính và làm tổ của phôi, đồng thời giúp tăng cường khả năng làm tổ và cải thiện kết quả thai trong các chu kỳ ICSI. Một số nghiên cứu đã đánh giá lợi ích của truyền hCG vào tử cung với kết quả thai, hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy khả năng làm tổ và tỷ lệ thai diễn tiến sau chuyển phôi nang được cải thiện sau khi truyền hCG vào nội mạc tử cung. Tuy nhiên, phân tích gộp của Osman và cộng sự cho thấy không có bất kỳ lợi ích nào của việc truyền hCG đối với tỷ lệ sinh sống hoặc tỷ lệ sẩy thai tự nhiên. Vì vậy, các nghiên cứu sâu hơn là cần thiết. Do đó, Pitak Laokirkkiat và cộng sự tiến hành một thử nghiêm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng nhằm đánh giá hiệu quả của việc truyền 10 μL hCG vào tử cung ngay trước ET trong cả chu kỳ chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ.
Nghiên cứu thực hiện trên những phụ nữ hiếm muộn có chu kỳ ET tươi hoặc đông lạnh-rã đông và ngẫu nhiên chia thành 2 nhóm (n = 100 mỗi nhóm). Nhóm 1 là nhóm sử dụng hCG, ở nhóm này 500 IU hCG trong 10 µL môi trường nuôi cấy được truyền vào buồng tử cung bằng cách sử dụng một catheter mềm vào 4 phút trước ET. Nhóm 2 là nhóm đối chứng, chỉ nhận 10 µL môi trường nuôi cấy bằng kỹ thuật tương tự. Kết quả chính của nghiên cứu là tỷ lệ làm tổ. Kết quả phụ là tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống.
Kết quả cho thấy, tỷ lệ làm tổ cao hơn đáng kể ở nhóm hCG so với nhóm chứng (28,8% so với 18,2%, p = 0,030). Tỷ lệ thai lâm sàng tương tự nhau ở cả hai nhóm (42% so với 30%, p = 0,077). Tỷ lệ sinh sống cũng tương tự nhau ở cả hai nhóm (29% và 23% ở nhóm hCG và nhóm chứng).
Nghiên cứu cho thấy truyền vào tử cung một lượng nhỏ hCG tại thời điểm ET có thể cải thiện đáng kể tỷ lệ làm tổ, trong khi tỷ lệ thai lâm sàng chỉ có thể được cải thiện ở những bệnh nhân trẻ hơn (<40 tuổi). Do đó, kỹ thuật này có thể mang lại lợi ích cho những bệnh nhân đang điều trị vô sinh.
Tài liệu tham khảo: Pitak Laokirkkiat, Isarin Thanaboonyawat, Savinee Boonsuk et al. Increased implantation rate after intrauterine infusion of a small volume of human chorionic gonadotropin at the time of embryo transfer: a randomized, double‑blind controlled study. Archives of Gynecology and Obstetrics. 2018.
Các tin khác cùng chuyên mục:
So sánh ảnh hưởng của sitagliptin và metformin đối với chất lượng noãn và phôi ở bệnh nhân PCOS cổ điển thực hiện ICSI - Ngày đăng: 19-02-2021
SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỘ PHÂN MẢNH VÀ TỈ LỆ DỊ BỘI CỦA PHÔI - Ngày đăng: 06-02-2021
HPV và nguy cơ vô sinh ở nữ giới? - Ngày đăng: 06-02-2021
CHIẾN LƯỢC TẦM SOÁT MẠCH MÁU TIỀN ĐẠO - VASA PREVIA - Ngày đăng: 06-02-2021
TỔNG QUAN HỆ THỐNG VÀ PHÂN TÍCH GỘP VỀ KẾT CỤC CHU SINH CỦA THAI KỲ CÓ HỘI CHỨNG THIẾU MÁU – ĐA HỒNG CẦU SONG THAI (Twin anemia – polycythemia sequence - TAPS) - Ngày đăng: 06-02-2021
Rối loạn hệ vi sinh vật trong nội mạc tử cung có ảnh hưởng đến sự làm tổ của phôi hay không? - Ngày đăng: 06-02-2021
Phân đoạn DNA tự do ngoài tế bào của thai trong các thai kỳ sau chuyển phôi tươi hoặc chuyển phôi đông lạnh - Ngày đăng: 05-02-2021
Phơi nhiễm bụi mịn trong môi trường xung quanh và chất lượng tinh dịch ở Đài Loan - Ngày đăng: 01-02-2021
Ảnh hưởng của phơi nhiễm bụi mịn lên chất lượng tinh dịch: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 01-02-2021
Ảnh hưởng của chuyển phôi ngày 7 lên kết cục sản khoa và chu sinh ở trẻ sinh sống sau chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 22-01-2021
Có nên điều trị cho phụ nữ có kháng thể tự miễn tuyến giáp? - Ngày đăng: 16-01-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK