Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 18-08-2020 5:25pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

Ths. Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận

Trong quy trình ICSI thường quy, tách noãn khỏi lớp tế bào hạt giúp đánh giá được tình trạng trưởng thành và quan sát được một số đặc điểm của noãn như tế bào chất, khoảng không quanh noãn (PVS) hay màng zona. Những bất thường hình thái noãn được báo cáo là có tương quan với kết quả phôi học và điều trị bằng kỹ thuật ICSI.

Bất thường PVS là một dạng bất thường phổ biến bao gồm nhiều loại như PVS rộng (PVS-L) hay có sự hiện diện của các thể hạt trong PVS (PVS-G), thường xuất hiện trong cùng một đoàn hệ noãn và được sử dụng như một yếu tố dự đoán chất lượng phôi. Một vài nghiên cứu trước đây cho rằng bất thường PVS có liên quan đến thụ tinh kém mặc dù tác động của chúng lên tỉ lệ thai và tỉ lệ làm tổ vẫn chưa rõ ràng. Trong hầu hết các chu kỳ điều trị, noãn có hình thái bình thường và bất thường được thu nhận trong một lần chọc hút, vì vậy khó xác định được nguồn gốc và nguyên nhân gây nên những bất thường này. Cho đến nay, số lượng nghiên cứu phân tích mối tương quan giữa noãn bất thường PVS và kết cục điều trị vẫn còn hạn chế. Vì vậy Bianca Ferrarini Zanetti và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của bất thường PVS bao gồm PVS-L và PVS-G lên kết quả phôi học và kết quả thai.

Nghiên cứu hồi cứu thực hiện trên 9752 noãn từ 1151 chu kỳ ICSI thực hiện từ tháng 6/2010 đến tháng 8/2016. Nghiên cứu phân tích trên 4 nhóm: nhóm PVS-L , nhóm PVS-G, nhóm PVS-L +PVS-G và nhóm PVS bình thường (nhóm chứng). Kết quả nghiên cứu cho thấy:

Không có sự khác biệt về tổng liều FSH giữa 4 nhóm nhưng tỉ lệ FSH/ số nang và FSH/ số noãn cao hơn ở nhóm PVS-L, PVS-G và PVS-L + PVS-G so với nhóm chứng. Đỉnh E2 ngày tiêm mũi trưởng thành noãn thấp ở nhóm PVS-L so với những nhóm khác (p< 0,001). 3 nhóm bất thường PVS có số lượng nang noãn và noãn thấp hơn nhóm chứng (p< 0,001). Số lượng phôi thu được ở nhóm chứng cao hơn 3 nhóm còn lại (p=0,002). Tỉ lệ thụ tinh, chất lượng phôi ngày 2, ngày 3, tỉ lệ hình thành phôi nang và tỉ lệ phôi chất lượng tốt tương đương giữa 4 nhóm. Sự hiện diện của một dạng bất thường (PVS-L hoặc PVS-G) không tác động đến kết quả lâm sàng. Tuy nhiên khi có cả hai dạng bất thường, kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai thấp hơn đáng kể so với những nhóm khác trong khi tỉ lệ sẩy thai tương đương.

Như vậy nghiên cứu này cho thấy các chu kỳ với đoàn hệ noãn bị tác động bởi bất thường PVS rộng và có sự hiện diện của các thể hạt trong PVS có tỉ lệ thai và tỉ lệ làm tổ thấp hơn so với những chu kỳ có noãn bình thường hoặc chỉ có một trong hai dạng PVS bất thường kể trên.

Nguồn: Is perivitelline space morphology of the oocyte associated with pregnancy outcome in intracytoplasmic sperm injection cycles? European Journal of Obstetrics and Gynecology. 10.1016/j.ejogrb.2018.10.053 2018.

Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK