Tin tức
on Wednesday 04-01-2017 2:14pm
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. BS. Lê Phạm Thu Hà
Bộ môn Nhi ĐHYD TP.HCM
Bộ môn Nhi ĐHYD TP.HCM
Một nghiên cứu quy mô lớn của Đan Mạch khảo sát gần 900.000 cuộc sinh cho thấy không có mối liên quan nào giữa các dị tật lúc sinh và việc sử dụng thuốc ngừa thai dạng uống xung quanh thời điểm thụ thai và khoảng thời gian đầu thai kỳ. Phát hiện này làm yên lòng phần lớn mọi người trên thế giới.
Một nghiên cứu quy mô lớn của Đan Mạch cho thấy việc sử dụng viên thuốc ngừa thai không làm tăng nguy cơ các dị tật lúc sinh.
Thuốc ngừa thai dạng viên là loại thuốc ngừa thai được phụ nữ sử dụng nhiều nhất tại Hoa Kỳ. Ước đoán khoảng 16% phụ nữ tuổi từ 15 đến 44 sử dụng viên thuốc ngừa thai một cách thường xuyên. Những lý do cho việc sử dụng này là rất rõ ràng; thuốc viên ngừa thai dễ được sử dụng, và khi sử dụng chúng một cách chính xác, hiệu quả ngừa thai lên tới 99%. Tuy nhiên, trong năm đầu tiên sau khi dùng thuốc ngừa thai dạng uống, khoảng 9% người sử dụng lại mang thai. Nhìn chung điều này xảy ra là do quên uống thuốc, bệnh lý hoặc các tương tác thuốc. Đồng thời, khi một người phụ nữ quyết định mang thai trở lại và dừng uống thuốc, cô ấy có thể có thai chỉ trong vòng một vài chu kỳ kinh nguyệt. Khi phụ nữ sử dụng thuốc ngừa thai dạng uống, thai nhi có thể phơi nhiễm phần nào với các hormone giới tính trong viên thuốc. Mặc dù có một số lượng lớn phụ nữ và thai nhi phơi nhiễm với các hormone này, hiểu biết về những hậu quả tiềm ẩn của chúng lên thai nhi còn rất hạn chế.
Những nghiên cứu về vấn đề này đã được tiến hành từ hàng thập kỷ qua. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những hormone giới tính ngoại sinh làm gia tăng nồng độ vitamin A và giảm nồng độ folate ở bà mẹ. Cả hai sự biến đổi này đều được xem như là những tác nhân có thể gây quái thai trên lý thuyết; hay nói theo một cách khác, chúng có khả năng làm rối loạn sự phát triển bào thai. Mặc dù vấn đề này đã được các nhà nghiên cứu khảo sát tới, phần lớn các phát hiện lại không đáng tin cậy. Một số nghiên cứu trước đây dựa vào dữ liệu tự báo cáo hồi cứu về việc sử dụng thuốc ngừa thai dạng uống. Điều đáng lo ngại là một người phụ nữ sinh con với một dị tật lúc sinh có thể nhớ lại việc phơi nhiễm với thuốc ngừa thai dạng uống của họ theo một cách rất khác biệt. Các nghiên cứu khác chỉ sử dụng cỡ mẫu nhỏ, và do những dị tật lúc sinh thường hiếm gặp, trừ khi sử dụng một cỡ mẫu lớn, rất khó để suy ra một mối liên quan xác thực với bất kỳ độ chính xác nào. Một số các nghiên cứu trước đây cho thấy không có mối liên quan nào giữa những thuốc ngừa thai dạng uống và các dị tật lúc sinh; một số khác lại phát hiện thấy những mối liên quan giữa viên thuốc và hội chứng thiểu sản tim trái (tâm thất trái dị dạng), các dị tật ở chi, hở thành bụng (ruột non của trẻ lồi ra một lỗ ở thành bụng) và các bất thường hệ tiết niệu.
Nghiên cứu mới nhất này, được công bố trên tạp chí “The BMJ”, là nghiên cứu lớn nhất và có độ bao phủ rộng nhất nhằm đào sâu vào các chi tiết của vấn đề quan trọng này. Một nhóm gồm các nhà nghiên cứu của Đan Mạch và Hoa Kỳ khảo sát những hồ sơ bệnh án của các trường hợp sinh sống ở Đan Mạch từ năm 1997 đến năm 2011. Sau khi loại trừ những trẻ được sinh ra với các dị tật lúc sinh gây ra bởi một yếu tố đã được biết tới, ví dụ như hội chứng nghiện rượu bào thai, nhóm nghiên cứu còn lại tổng cộng 880.694 trường hợp sinh sống. Trong số những trường hợp sinh sống của mẫu nghiên cứu lớn này, 2,5% trường hợp có các dị tật lúc sinh xảy ra trong vòng năm đầu tiên của cuộc đời.
Nhóm nghiên cứu có thể xác định được thời điểm cuối cùng mà các bà mẹ được kê toa thuốc ngừa thai dạng uống dựa vào một cơ sở dữ liệu đăng ký quốc gia. Trong số các bà mẹ, 68% đã sử dụng viên thuốc ngừa thai nhưng dừng sử dụng chúng trước khi mang thai hơn 3 tháng. Tổng cộng, 8% tiếp tục sử dụng viên thuốc ngừa thai trong vòng 3 tháng cửa sổ trước thai kỳ và 1% còn tiếp tục sử dụng thuốc viên ngừa thai một thời gian ngắn sau mang thai. Nhóm nghiên cứu hiệu chỉnh các yếu tố khác có thể ảnh hưởng tới khả năng sử dụng thuốc ngừa thai hoặc có tiềm năng làm gia tăng nguy cơ của các dị tật lúc sinh. Những yếu tố này bao gồm trình độ học vấn, thu nhập gia đình, các thai kỳ trước đó với những dị tật lúc sinh, hút thuốc trong thai kỳ và việc sử dụng các thuốc được kê toa khác. Các yếu tố này là rõ ràng và chắc chắn nhằm giúp các thai phụ thu thập trí nhớ một cách dễ dàng. Số lượng các dị tật lúc sinh là hằng định ở tất cả 4 nhóm:
· Nhóm chưa bao giờ sử dụng thuốc ngừa thai dạng uống: 25,1 dị tật lúc sinh trên 1.000 cuộc sinh.
· Nhóm sử dụng thuốc ngừa thai dạng uống hơn 3 tháng trước khi mang thai: 25,0 dị tật lúc sinh trên 1.000 cuộc sinh.
· Nhóm sử dụng thuốc ngừa thai dạng uống trong vòng 0-3 tháng trước khi mang thai: 24,9 dị tật lúc sinh trên 1.000 cuộc sinh.
· Nhóm sử dụng thuốc ngừa thai dạng uống trong suốt khoảng thời gian đầu của thai kỳ: 24,8 dị tật lúc sinh trên 1.000 cuộc sinh.
Các tác giả của nghiên cứu phát biểu: “Đối với những phụ nữ mang thai ngoài kế hoạch khi đang sử dụng thuốc viên ngừa thai hoặc ngay cả chủ ý mang thai trong vòng một vài tháng sau khi dừng sử dụng thuốc ngừa thai dạng uống, bất kỳ một sự phơi nhiễm nào đều không có khả năng làm cho thai nhi có thể phát triển một dị tật lúc sinh quan trọng”.
Mặc dù các tác giả nhanh chóng lưu ý rằng đây là một nghiên cứu quan sát và do đó, không thể khẳng định nhằm chứng minh cho mối quan hệ nhân – quả, nghiên cứu này vẫn hiển nhiên góp phần thêm vào chứng cứ thuyết phục về mức độ an toàn của thuốc ngừa thai dạng uống.
(Nguồn: medicalnewstoday 4/2016)
Từ khóa: Thuốc ngừa thai
Các tin khác cùng chuyên mục:
Chỉ tầm soát một mình tật đầu nhỏ không giúp phát hiện tất cả trường hợp nhiễm Zika virus ở trẻ sơ sinh. - Ngày đăng: 04-01-2017
Những trẻ sinh non, nhẹ cân có sức khoẻ và sự giàu có ít hơn về sau trong cuộc đời - Ngày đăng: 04-01-2017
Việc tiêu thụ trái cây trước khi sinh thúc đẩy sự phát triển nhận thức của trẻ - Ngày đăng: 06-02-2017
Estrogen-progestins và progestins trong xử trí lạc nội mạc tử cung - Ngày đăng: 27-12-2016
Tập thể dục có thể giúp cải thiện chức năng cương - Ngày đăng: 18-11-2016
Vô sinh nam có thể liên quan đến virus Zika - Ngày đăng: 16-11-2016
Vitamin D liên quan đến giảm triệu chứng rối loạn của hội chứng tăng động giảm chú ý (ADHD) - Ngày đăng: 11-11-2016
Mô tả hội chứng Zika bẩm sinh trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh hoa kỳ công bố - Ngày đăng: 07-11-2016
Nghiên cứu của Viện chăm sóc sức khoẻ quốc gia (NIH) cho thấy một liều steroid cũng có thể có lợi cho trẻ sinh cực non - Ngày đăng: 31-10-2016
Sát khuẩn rốn có thể không làm giảm tử vong sơ sinh ở những vùng có tỉ lệ tử vong sơ sinh thấp - Ngày đăng: 29-10-2016
Probiotic có thể ngăn ngừa dị ứng ở trẻ sơ sinh - Ngày đăng: 24-10-2016
Thai kỳ sau điều trị hỗ trợ sinh sản-xin noãn làm tăng nguy cơ tiền sản giật - Ngày đăng: 22-10-2016
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK