Trước nay, chọn lựa trong điều trị CIN 2 và CIN 3 thường là khoét chóp cắt bỏ vùng tổn thương ở CTC. Tuy nhiên, tỷ lệ tái phát vẫn còn cao (5-26%) ngay cả khi bờ phẫu thuật âm tính. Ngoài ra, khoét chóp còn có nhiều điểm bất lợi khác: gây lo lắng, đau, chảy máu, tốn kém và có nghiên cứu gần đây còn cho thấy làm tăng nguy cơ sanh non. Và bởi gần một nửa số trường hợp tổn thương CIN 2 ở phụ nữ trẻ tuổi sẽ thoái triển, chỉ có khoảng 1/3 số trường hợp tổn thương tồn tại và diễn tiến tới CIN 3 nên những hướng dẫn mới nhất hiện nay cũng khuyến cáo nên chọn lựa biện pháp theo dõi sát bằng tế bào học và soi CTC trước khi quyết định điều trị (ASCCP 2013).
5-fluorouracil (5-FU) từ lâu đã được sử dụng trong trị liệu ung thư, chủ yếu là các ung thư ở đường tiêu hóa nhờ tác dụng ức chế quá trình sinh tổng hợp DNA và ngăn chặn quá trình tăng sinh của khối u. Những nghiên cứu đầu tiên về việc sử dụng 5-FU trong điều trị các bệnh lý đường sinh dục thấy có xuất hiện những biến chứng như đau hay loét mãn tính. Do đó, hiện tại FDA cũng như ACOG chưa có khuyến cáo nào về việc sử dụng 5-FU trong các bệnh lý này. Tuy nhiên, những biến chứng trong các nghiên cứu trước có thể liên quan đến liều lượng cao, số ngày điều trị kéo dài và cả những hạn chế khác trong nghiên cứu. Nhận thấy những vấn đề tồn tại trên, một nhóm nghiên cứu đến từ Đại học Bắc Carolina đã tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả, độ an toàn và tỷ lệ chấp nhận của bệnh nhân trong việc sử dụng 5-FU đường âm đạo như là trị liệu đầu tay cho CIN 2 ở phụ nữ trẻ.
Phụ nữ trong nhóm tuổi 18-29 được thu thập vào nghiên cứu và được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm theo dõi không dùng thuốc và nhóm sử dụng kem 5-FU đường âm đạo (Efudex; Valeant Pharmaceuticals International, Quebec, Canada). Liều thuốc sử dụng là 2 gram 5 –FU 5% bơm vào âm đạo mỗi 2 tuần và kéo dài trong 16 tuần (8 liều). Phụ nữ trong cả 2 nhóm sẽ được làm Pap, soi CTC và HPV DNA tại thời điểm 6 tháng sau khi được chẩn đoán CIN 2. Kết quả được đánh giá quan trọng nhất là sự thoái triển của bệnh tại thời điểm 6 tháng. Những kết quả khác bao gồm tình trạng nhiễm HPV tại thời điểm 6 tháng, kết quả giải phẫu bệnh lý thời điểm 12 tháng, độ an toàn và tỷ lệ chấp nhận của bệnh nhân đối với phương pháp điều trị này.
Kết quả, trong khoảng thời gian từ tháng 8/2010 – tháng 6/2013 có tất cả 60 phụ nữ thỏa mãn điều kiện nghiên cứu được phân ngẫu nhiên vào 2 nhóm: nhóm điều trị (n=31) và nhóm theo dõi (n =29).
- Phân tích theo phân phối ngẫu nhiên nhóm bệnh nhân ban đầu cho thấy: trong số những phụ nữ được sinh thiết CTC tại thời điểm 6 tháng, sự thoái triển của bệnh thấy rõ ở 84% phụ nữ trong nhóm điều trị (26/31 trường hợp) và 52% ở nhóm theo dõi (15/29 trường hợp). Và sử dụng 5-FU giúp tăng tỷ lệ thoái triển bệnh lên 1,62 lần khi không điều trị (95% CI, 1.10–2.56, P =0.01).
- Phân tích theo độ nhạy cho thấy: Sự thoái triển của bệnh thấy rõ ở 93% (26/28 trường hợp) phụ nữ trong nhóm điều trị và 56% ở nhóm theo dõi (15/27 trường hợp). 56% phụ nữ trong nhóm điều trị (15/27 trường hợp) có HPV âm tính, so với 26% ở nhóm theo dõi (RR 2.14 ; 95% CI, 1.07–5.37; P = 0.05) tại thời điểm 6 tháng.
- Khi thực hiện kết hợp Pap, HPV và soi CTC tại thời điểm 6 tháng cho thấy ở nhóm điều trị 50% cả 3 xét nghiệm ở trên âm tính (14/28 trường hợp); so với chỉ 22% ở nhóm theo dõi (6/27 trường hợp) (RR 2.25; 95% CI, 1.05–5.09; P < 0.05).
- Tại thời điểm 12 tháng, trong số những phụ nữ còn quay lại tái khám, kết quả cho thấy dường như ở nhóm điều trị tỷ lệ soi CTC không phát hiện bất thường cao hơn (45%, 9/20 trường hợp) so với nhóm theo dõi (25%). Trong số 55% (11/20) soi CTC có hình ảnh bất thường, kết quả bấm sinh thiết chỉ có 1 trường hợp CIN 2, còn lại là kết quả bình thường, không có CIN 1 hay CIN 3.
- Về tác dụng phụ: Không có phản ánh về tác dụng phụ nghiêm trọng ảnh hưởng đến cuộc sống thường ngày. 48% phụ nữ phản ảnh về ít nhất một trong những triệu chứng đau, chảy máu, tiết dịch âm đạo, ngứa rát… Tuy nhiên, có đến 97% phụ nữ (28/29 trường hợp) cho rằng kem 5-FU an toàn và việc sử dụng thuốc này là hoàn toàn đúng đắn.
- Đánh giá về tổng thể: 83% phụ nữ hài lòng với việc sử dụng kem 5-FU.
Những kết quả của nghiên cứu này ủng hộ việc sử dụng kem 5-FU như là một liệu pháp hỗ trợ và giúp chúng ta theo dõi diễn tiến thoái triển của CIN 2 chủ động và tích cực hơn. Phù hợp nhất là ở nhóm phụ nữ trẻ không chấp nhận khoét chóp do lo ngại các biến chứng hay những vấn đề liên quan đến kết cục xấu của thai kỳ.
Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng còn có hạn chế là cỡ mẫu nhỏ (60 bệnh nhân) và có thể có những yếu tố gây ảnh hưởng đến kết quả, ví dụ như việc sử dụng biện pháp ngừa thai bằng bao cao su trong thời gian nghiên cứu có thể làm hạn chế nguy cơ nhiễm các type HPV khác.
Đề xuất cho những nghiên cứu trong tương lai:
- Cần có một cỡ mẫu lớn hơn nữa.
- Đánh giá hiệu quả trị liệu đối với CIN 3.
- Chuyển hướng nghiên cứu thêm ở phụ nữ trên 30 tuổi.
- Đánh giá lại lợi ích của việc điều trị ở phụ nữ dưới 25 tuổi, vì tỷ lệ thoái triển rất cao ở nhóm tuổi này mà không cần điều trị.
BS Bùi Quang Trung
Nguồn tham khảo:
Lisa Rahangdale, Quinn K. Lippmann et al, Topical 5-fluorouracil for treatment of cervical intraepithelial neoplasia 2: a randomized controlled trial, American Journal of Obstetrics & Gynecology - April 2014 (Vol. 210, Issue 4, Pages 314.e1-314.e8, DOI: 10.1016/j.ajog.2013.12.042)
http://www.ajog.org/article/S0002-9378(13)02287-4/fulltext
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...