Từ năm 1992, trường hợp đầu tiên ra đời từ kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) được báo cáo đã mở ra một kỷ nguyên mới của điều trị vô sinh. Với ICSI, chỉ cần 1 tinh trùng là đủ để có thể thụ tinh với noãn, nhờ đó, rất nhiều trường hợp vô sinh đã được điều trị thành công. Trong thời gian đầu phát triển, người ta cho rằng chất lượng tinh trùng có vẻ không ảnh hưởng đến kết quả điều trị bằng ICSI, miễn là có một tinh trùng sống để sử dụng. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy khi quan sát dưới kính hiển vi ở độ phóng đại x400, khó có thể tiên đoán tinh trùng bình thường về cấu trúc di truyền hay không, bao gồm bất thường số lượng nhiễm sắc thể hay tổn thương ADN. Chỉ định chính của ICSI là cho những trường hợp có bất thường tinh trùng nặng, với những trường hợp này, bất thường về hình dạng thường đi kèm với bất thường về di truyền. Mối liên hệ mật thiết giữa bất thường di truyền hay ADN phân mảnh (DNA fragmentation) với tỷ lệ sẩy thai đã được chứng minh qua một nghiên cứu tổng quan hệ thống. Do đó, việc lựa chọn được tinh trùng trưởng thành, có khả năng thụ tinh cao và không bất thường về di truyền đóng vai trò quan trọng trong ICSI.
Tác giả Jacob Levron cùng cộng sự vừa đăng một nghiên cứu trên tạp chí Reproductive BioMedicine Online chứngminh mối liên quan giữa hình dạng và độ di động của tinh trùng với tỷ lệ bất thường NST của tinh trùng .Tám bệnh nhân nam vô sinh do OAT ở nhiều mức độ khác nhau và có tình trạng thất bại làm tổ nhiều lần được lựa chọn vào nghiên cứu dựa theo tỷ lệ bất thường di truyền cao trong mẫu tinh trùng họ xuất tinh. Tất cả 8 đối tượng nghiên cứu đều có đặc điểm lâm sàng, karyotype và nồng độ FSH bình thường. Trước khi điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON), các nhà nghiên cứu lấy tinh trùng của các đối tượng phân tích, vi xử lý và xét nghiệm nhằm đánh giá NST X, Y và số 18 bằng gắn kết huỳnh quang. Các mẫu tinh trùng được chia thành 2 nhóm, nhóm tinh trùng có hình dạng bình thường được lựa chọn bằng kính hiển vi quang học độ phóng đại cao. Nhóm thứ hai là nhóm tinh trùng di động nhanh được chọn lọc bằng pipette tiêm tinh trùng vào bào tương từ những vi giọt qua tiếp xúc bề mặt môi trường dầu. Tỷ lệ bất thường trung bình cho 3 cặp NST là 7,6% (395/5182) trong những mẫu tinh trùng trước khi được chọn lọc, 8,7% (116/1326) trong nhóm tinh trùng có hình dạng bình thường và 4,3% (59/1388; P<0.001) ở nhóm tinh trùng di động nhanh.
Tóm lại, kết quả của nghiên cứu cho thấy việc chọn lọc tinh trùng dựa trên hình dạng bình thường với kính hiển vi quang học có độ phóng đại cao không có ảnh hưởng đến tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể. Mặt khác, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy việc chọn lọc tinh trùng di động nhanh làm giàm có ý nghĩa tỷ lệ bất thường nhiễm sắc thể (P<0.001). Do đó, việc lựa chọn những con tinh trùng di động nhanh để sử dụng cho kỹ thuật ICSI có thể cải thiện tỷ lệ thụ tinh của tinh trùng.
Bs. Lê Văn Khánh
Nguồn: Aneuploidy rates for chromosomes X/Y and 18 among preselected spermatozoa in men with severe teratospermia
Reproductive BioMedicine Online
Volume 27, Issue 3 , Pages 280-285, September 2013
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...