Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 20-10-2010 12:19pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

k vu1Kết quả của một nghiên cứu cho thấy khoảng 20% bệnh nhân ung thư vú di căn tham gia vào thử nghiệm lâm sàng pha I có tiến triển tốt sau 4 tháng điều trị bằng những thuốc mới dựa trên đặc điểm khối u và hoạt tính sinh học của các thuốc mới.

 

Theo Charles Swanton (bệnh viện Royal Marsden, Sutton, Anh Quốc) và các đồng nghiệp, kết quả này ủng hộ cho việc thực hiện thử nghiệm lâm sàng pha I, tuy nhiên họ cũng nhấn mạnh “còn nhiều thử thách trong việc phát triển những loại thuốc hiệu quả để điều trị ung thư vú”.

Mặc dù đã có những tiến bộ gần đây về các loại thuốc điều trị ung thư, nhưng phần lớn phụ nữ bị ung thư vú di căn có thời gian sống trung bình chỉ khoảng 18-24 tháng, và chỉ khoảng 20% sống 5 năm sau khi được chẩn đoán ung thư di căn.

Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu đã hồi cứu lại 70 bệnh nhân ung thư vú di căn tham gia trong 30 thử ngiệm pha I ở bệnh viện Royal Marsden từ năm 2002 đến 2009.

Thời gian sống trung bình là 8,7 tháng và thời gian tiến triển bệnh trung bình là 7 tuần. Trong đó, 8 bệnh nhân (11,4%) đáp ứng điều trị một phần, 12 bệnh nhân (17,1%) bệnh ổn định không tiến triển và 50 (71,4%) bệnh tiến triển phát hiện trong lần chụp nhũ ảnh đầu tiên. Tỷ lệ lợi ích lâm sàng toàn bộ sau 4 tháng là 20%.

Những bệnh nhân ung thư có bộ ba thụ thể âm tính (estrogen, progesterone, Her-2) có tỷ lệ lợi ích lâm sàng cao nhất 30,7%; phần lớn được điều trị với chất ức chế men poly (ADP-ribose) polymerase (PARP) hoặc được điều trị hóa chất phối hợp. Trong lúc đó, những bệnh nhân HER-2 dương tính có tỷ lệ lợi ích lâm sàng là 19% và bệnh nhân có thụ thể estrogen dương tính và HER-2 âm tính thì tỷ lệ là 8,7%.

Trong phân tích đa biến, những yếu tố tương quan có ý nghĩa với thời gian sống là nồng độ LDH (lactate dehydrogenase) bất thường, lượng albumin huyết thanh ≥ 35 mg/100ml (≥5 mức trước điều trị), có di căn gan, và thang điểm đánh giá toàn trạng (Cooperative Group performance status) ≥2 lúc vào nghiên cứu, với hazard ratio lần lượt là 3,2; 0,35; 2,5; và 3,3.

Swanton và các đồng nghiệp nói rằng những nghiên cứu tiếp theo tương tự như nghiên cứu của họ sẽ đóng vai trò là những nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng kiểm chứng cho hiệu quả của điều trị nhắm trúng đích trên những loại ung thư vú khác nhau ở mức độ phân tử.

BS Đoàn Thị Thanh Vy

Nguồn: Br J Cancer 2010; 103: 607–612

Từ khóa:
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK