Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 23-04-2025 3:24am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Trương Quốc Thịnh – IVF Tâm Anh
 
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection - ICSI), một phiên bản phát triển của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm truyền thống (conventional in vitro fertilization - c-IVF), đã xuất hiện vào những năm 1990 như một kỹ thuật đột phá cho việc điều trị vô sinh nam nghiêm trọng. ICSI tiêm trực tiếp một tinh trùng duy nhất vào một noãn để vượt qua các rào cản do số lượng hoặc khả năng di chuyển của tinh trùng thấp. Trong vài thập kỷ qua, sự phổ biến của ICSI đã tăng vọt, mở rộng ra ngoài phạm vi chỉ định ban đầu, chiếm hai phần ba tất cả các chu kỳ điều trị hỗ trợ sinh sản tại châu Âu và toàn cầu. Tuy nhiên, các nghiên cứu hồi cứu không chứng minh được bất kỳ lợi thế nào của ICSI so với c-IVF về tỷ lệ sinh sống trong nhóm bệnh nhân không có yếu tố vô sinh nam nặng. Gánh nặng chi phí bổ sung của ICSI so với c-IVF, thường bị ảnh hưởng bởi các động lực tài chính, làm nổi bật tầm quan trọng của bằng chứng mạnh mẽ, chất lượng cao để biện minh cho việc sử dụng ICSI. Gần đây, hai thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng được thực hiện ở châu Á không tìm thấy sự cải thiện nào về tỷ lệ sinh sống sau khi chuyển phôi đầu tiên khi so sánh ICSI với c-IVF ở các cặp đôi có thông số tinh trùng bình thường và những người có yếu tố vô sinh nam không nghiêm trọng. Nghiên cứu này từ châu Âu cung cấp những hiểu biết mới bằng cách tập trung vào các khía cạnh chính, nhắm đến các bệnh nhân ở chu kỳ đầu tiên, nhấn mạnh việc chuyển phôi blastocyst và chuyển phôi đơn chọn lọc để giảm thiểu đa thai và sử dụng chỉ số tỷ lệ thai sinh sống tích lũy (cumulative live birth rate - CLBR) làm chỉ số kết quả chính.

Nghiên cứu được thực hiện bao gồm 388 người tham gia trong nhóm ICSI và 378 người tham gia trong nhóm c-IVF. Phân tích ITT (Intention-to-Treat – ITT) cho thấy tỷ lệ CLBR là 43,2% (179/414) trong nhóm ICSI và 47,3% (193/408) trong nhóm c-IVF (tỷ lệ rủi ro (risk ratio – RR) = 0,91, khoảng tin cậy 95% (CI) = 0,79–1,06). Tổng cộng, 110/414 (26,6%) phụ nữ trong nhóm ICSI và 129/408 (31,6%) phụ nữ trong nhóm c-IVF đã có một ca sinh sống sau khi chuyển phôi lần đầu tiên. Tỷ lệ thụ tinh trên mỗi noãn thấp hơn đáng kể trong nhóm ICSI so với nhóm c-IVF (53,5% (1940/3628) so với 58,1% (1983/3412); P ≤ 0,001). Thất bại thụ tinh hoàn toàn xảy ra trong 20 trường hợp (4,8%) trong nhóm ICSI và 15 trường hợp (3,7%) trong nhóm c-IVF (RR=1,29; 95% CI, 0,68–2,54). Thời gian chờ đến khi đạt được thai kỳ có trẻ sinh sống không khác nhau giữa các nhóm (trung vị, ICSI—90 ngày khoảng tứ phân (IQR; 42–158) so với c-IVF—93 ngày IQR (43–127); P = 0,82). Không có sự khác biệt nào giữa hai nhóm về các kết quả sản khoa và sơ sinh. Phân tích thứ cấp cho thấy tác động tiêu cực của ICSI so với c-IVF đối với phụ nữ trẻ (≤32 tuổi). Phân tích cho thấy sự tương tác giữa đáp ứng buồng trứng và nhóm phân bổ với tác động tiêu cực của ICSI so với c-IVF ở những người có phản ứng buồng trứng "bình thường" (10–15 noãn thu thập). Hình thái tinh trùng, các thông số tinh trùng bình thường, chỉ định điều trị, anti-Müllerian hormone (AMH) và nơi trung tâm thử nghiệm không ảnh hưởng đến CLBR.
 
Nhóm nghiên cứu không tìm thấy lợi ích của ICSI so với c-IVF ở những bệnh nhân vô sinh không có yếu tố nam nghiêm trọng khi được đo bằng tỷ lệ CLBR. Không có sự cải thiện nào về tỷ lệ thai diễn tiến hoặc tỷ lệ làm tổ sau ICSI. Nhóm cũng đã chứng minh tỷ lệ thụ tinh tốt hơn (trên mỗi noãn thu thập) sau c-IVF so với ICSI. Điều này phù hợp với các nghiên cứu trước đây, đã chứng minh tỷ lệ thụ tinh cao hơn với c-IVF hoặc không có sự khác biệt đáng kể giữa hai phương pháp. Việc sử dụng CLBR giảm thiểu thiên kiến tiềm tàng trong việc chọn phôi, đảm bảo một phân tích vững chắc về hiệu quả tổng thể trong các chu kỳ ICSI/c-IVF. Tuân thủ theo các tiêu chuẩn vàng trong ART, tất cả các ca chuyển phôi trong nghiên cứu đều là chuyển phôi đơn, và hơn 96% các ca chuyển phôi trong cả hai nhóm là chuyển phôi nang. Bên cạnh đó, hình thái tinh trùng bình thường (>4%) đã bị loại bỏ trong bộ tiêu chí như một phần của các sửa đổi nghiên cứu do sự không nhất quán trong các mẫu tinh dịch. Đáng chú ý, những đánh giá này dựa trên các mẫu được lấy trước khi thu thập noãn thay vì tại cùng thời điểm đó. Phân tích cho thấy hình thái tinh trùng không ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ CLBR. Về lý thuyết, sẽ hợp lý khi mong đợi rằng hình thái tinh trùng chỉ có vai trò khiêm tốn trong ICSI và có thể có ảnh hưởng nhiều hơn trong c-IVF.
 
Trong phân tích thứ cấp khác của nghiên cứu, nhóm thấy rằng ở những phụ nữ trẻ (≤32 tuổi), ICSI có thể liên quan đến khả năng sinh sống thấp hơn. Hơn nữa, đáp ứng buồng trứng bình thường có sự liên quan đến khả năng sinh sống giảm sau ICSI so với c-IVF. Điều này có thể phản ánh lợi thế của quá trình chọn lọc tự nhiên trong c-IVF, khi con tinh trùng phù hợp nhất được thụ tinh cho noãn, đặc biệt là ở những phụ nữ có điều kiện tối ưu (tuổi trẻ và nhiều noãn). Ngược lại, ICSI có thể có lợi hơn ở những phụ nữ có đáp ứng buồng trứng kém, khi mà sự thụ tinh được hỗ trợ, bù đắp cho chất lượng noãn thấp hơn. Thêm vào đó, có thể có một yếu tố "ẩn", khiến noãn dễ bị tổn thương hơn trước sự can thiệp xâm lấn liên quan đến ICSI. ICSI có thể gây tổn thương cơ học cho noãn bằng cách làm tổn thương các cấu trúc bên trong và khung xương tế bào trong quá trình tiêm tinh trùng, dẫn đến một quá trình không phản ánh đúng cách thâm nhập và kích hoạt tinh trùng tự nhiên. Vẫn còn tranh cãi liệu sự gián đoạn này (và khả năng chọn lọc tinh trùng có DNA bị tổn thương hoặc vấn đề cấu trúc) có thể liên quan đến nguy cơ tăng lên về các bất thường nhiễm sắc thể trong các phôi được tạo ra. Lý do sử dụng ICSI trong các trường hợp vô sinh không có yếu tố nam có thể là để giảm thiểu nguy cơ thất bại thụ tinh toàn bộ bất ngờ sau c-IVF, chẳng hạn như ở những bệnh nhân vô sinh không rõ nguyên nhân. Cả nghiên cứu này và các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng trước đây đều không cho thấy bất kỳ sự gia tăng nguy cơ về thất bại thụ tinh sau c-IVF so với ICSI, cũng như nhóm không tìm thấy lợi ích của ICSI so với c-IVF trong nhóm vô sinh không rõ nguyên nhân. Ngoài ra, vẫn chưa chứng minh được vai trò hợp lý của ICSI ở những bệnh nhân đã trải qua thất bại thụ tinh toàn bộ ở chu kỳ c-IVF trước đó. Dữ liệu gần đây cho thấy việc thực hiện ICSI trên các noãn không thụ tinh sau c-IVF (được gọi là "ICSI cứu trợ") cũng cần được nghiên cứu thêm.
 
Kết luận, ICSI không mang lại tỷ lệ CLBR vượt trội hơn so với c-IVF ở những bệnh nhân vô sinh không có yếu tố nam nghiêm trọng. Nghiên cứu này chứng minh rằng khi tuân thủ các tiêu chuẩn vàng hiện tại trong điều trị thụ tinh ống nghiệm, đặc biệt là chuyển đơn phôi nang có chọn lọc, việc điều trị các cặp đôi không có yếu tố vô sinh nam nghiêm trọng bằng ICSI không mang lại lợi ích nhiều hơn so với c-IVF. C-IVF an toàn, đơn giản và nhẹ nhàng cho cả noãn và tinh trùng, hiệu quả về chi phí và tài nguyên hơn ở những bệnh nhân chu kỳ đầu tiên so với ICSI. Thực hành lâm sàng nên đảm bảo rằng các điều trị hiệu quả nhất và ít xâm lấn nhất được ưu tiên, cuối cùng cải thiện kết quả cho bệnh nhân và phân bổ tài nguyên tốt hơn.
 
Nguồn: Berntsen, S., Zedeler, A., Nøhr, B. et al. IVF versus ICSI in patients without severe male factor infertility: a randomized clinical trial. Nat Med (2025). https://doi.org/10.1038/s41591-025-03621-x

Các tin khác cùng chuyên mục:
HỘI VIÊN
CỘNG TÁC VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK