Tin tức
on Friday 18-04-2025 2:30pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Lê Ngọc Quế Anh – IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Trong những năm gần đây, trữ lạnh phôi trở nên phổ biến hơn để giảm thiểu mức độ nghiêm trọng của hội chứng quá kích buồng trứng. Một số nghiên cứu lâm sàng đã so sánh kết quả lâm sàng giữa chuyển phôi tươi (fresh embryo transfer- ET) và chuyển phôi trữ (frozen embryo transfer – FET) cho thấy tỉ lệ sinh sống và mang thai cao hơn ở nhóm FET. Tuy nhiên có nhiều báo cáo cho thấy FET có liên quan đến các kết quả bất lợi như cân nặng khi sinh cao và rối loạn tăng huyết áp khi mang thai. Bên cạnh đó, sự thành công của IVF phần lớn phụ thuộc vào sự phát triển của phôi.
Tại các phòng lab, sự phát triển và làm tổ của phôi được thúc đẩy bằng cách mô phỏng môi trường in vitro với các điều kiện về độ pH, nhiệt độ, thành phần môi trường nuôi cấy và thành phần khí bên trong tủ cấy. Nồng độ oxy (O2) được cho là đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của phôi. Các nghiên cứu gần đây cho thấy nồng độ O2 trong ống dẫn trứng và tử cung lần lượt là 5% và 2%. Do đó hầu hết các trung tâm hiện nay, thực hiện nuôi cấy với điều kiện 5% O2. Nồng độ O2 cao hơn có thể ảnh hưởng đến cấu trúc protein, tiềm năng màng trong ty thể, chuyển hóa phôi, quá trình methyl hóa DNA và biểu hiện gen.
Nghiên cứu hiện tại nhằm mục đích khám phá tác động của ET và FET ở nồng độ O2 5% và 2% lên các thông số khác nhau của thai kỳ.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện tại Ấn Độ từ tháng 1 năm 2021 đến tháng 1 năm 2022
Đối tượng nghiên cứu là 382 phụ nữ từ 22 đến 53 tuổi, tiền sử vô sinh ít nhất một năm và nhận noãn từ người hiến. Tất cả chu kì thực hiện ICSI, bao gồm tinh trùng thủ thuật. Tiêu chí loại: chu kỳ thực hiện xét nghiệm phôi tiền làm tổ.
Từ tháng 1 năm 2021 đến tháng 5 năm 2021 phôi được nuôi cấy trong môi trường O2 5% (n=176)
Từ tháng 6 năm 2021 đến tháng 1 năm 2022 phôi được nuôi cấy trong môi trường O2 2% (n=206)
Phôi được nuôi cấy trong tủ nuôi MINC (Cook, Úc) với điều kiện nhiệt độ 370C, độ ẩm cao và sử dụng khí trộn (5% CO2, 5% O2 và N2 cân bằng). Sử dụng môi trường nuôi cấy đơn bước (SAGE, Origio, Đan Mạch), phôi được nuôi cấy nhóm 3-5 phôi một giọt môi trường nuôi cấy. Noãn sau thụ tinh được nuôi cấy trong điều kiện 5% O2 cho đến ngày 3, tiến hành đánh giá chất lượng phôi ngày 3, những phôi có cùng phân loại được nuôi cấy chung trong điều kiện 5% O2 hoặc 2% O2 tùy vào thời gian nghiên cứu. Giai đoạn phôi nang, phôi được đánh giá phân loại theo hệ thống Gardner và Schoolcraft.
Trong nghiên cứu, các phôi nở hoàn toàn, có thể thấy rõ ICM và TE được chọn để chuyển phôi tươi. Các phôi nở độ 3 và có ICM loại A hoặc B được trữ lại vào ngày 5 hoặc 6.
Kết quả chính: tỉ lệ mang thai, tỉ lệ làm tổ
Kết quả phụ: tỉ lệ phá thai, tỉ lệ sinh đôi và tỉ lệ sinh sống.
Kết quả
Không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm (5% và 2%) về tỷ lệ mang thai và tỷ lệ làm tổ dù là phôi tươi hay phôi trữ. Tuy nhiên phôi được nuôi cấy trong môi trường 2% O2 có tỷ lệ làm tổ tốt hơn khi chuyển phôi tươi so với chuyển phôi trữ (71,34% so với 61,46%, p=0,04). Tỷ lệ sinh sống giữa các nhóm 5% O2 và 2% O2 sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Trong nhóm chuyển phôi tươi được nuôi cấy ở 2% O2 có tỷ lệ đa thai cao hơn so với nhóm 5% O2 (50,6% so với 33,3%; P = 0,047). Bên cạnh đó, trong nhóm được chuyển phôi trữ, tỷ lệ sảy thai nhóm 5% O2 cao hơn nhóm 2% O2 (24,71 so với 11,49; P = 0,02). Bên cạnh đó, tỷ lệ mang thai và tỷ lệ sảy thai ở nhóm 5% O2 và 2% O2 khi chuyển phôi loại 1 không có sự khác biệt đáng kể
Khi phân chia theo nhóm tuổi (>35 tuổi và <35 tuổi). Kết quả mang thai ở nhóm >35 tuổi không có sự khác biệt ở cả hai nhóm điều kiện nuôi cấy là 5% và 2% với phương pháp chuyển phôi tươi hay trữ. Tuy nhiên, nhóm tuổi <35 tuổi cho thấy tỷ lệ mang thai cao hơn đáng kể (94,12%) khi được chyển phôi tươi so với chuyển phôi trữ (69,44%) và sự khác biệt có ý nghĩa thống kể (p=0,045). Tỷ lệ phôi chất lượng tốt nhóm 5% O2 cao hơn so với nhóm 2% O2 ở cả hai nhóm chuyển phôi tươi và phôi trữ.
Thảo luận
Các nghiên cứu gần đây đã xác định nuôi cấy phôi trong điều kiện O2 5% giúp cải thiện số lượng và chất lượng phôi nang hơn so với phôi nuôi cấy trong điều kiện oxy khí quyển. Từ đó, các hướng nghiên cứu mới mở ra như đánh giá các phương pháp khác nhau sử dụng O2 5% và 2% trong nuôi cấy hoặc sử dụng O2 một pha hoặc hai pha.
Phôi sau nuôi cấy, các phôi được cân nhắc giữa chuyển phôi tươi hay phôi trữ. Những năm gần đây, chuyển phôi trữ đã trở nên phổ biến hơn nhờ những lợi ích như giảm nguy cơ trẻ nhẹ cân, sinh non. Tăng tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ mang thai và ít biến chứng trong thai kỳ, sinh nở. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho rằng cả hai phương pháp đều tương đồng về tỉ lệ mang thai và số ca sinh sống.
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phôi chất lượng tốt cao hơn ở nhóm 5% O2 so với nhóm 2% O2 cả chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ. Tuy nhiên, số lượng phôi chất lượng tốt cao hơn không dẫn đến kết quả mang thai tốt hơn.
Nghiên cứu có một số hạn chế như đây là nghiên cứu hồi cứu với cỡ mẫu nhỏ. Hơn nữa, tính không đồng nhất của nhóm đối tượng nghiên cứu về các nguyên nhân gây vô sinh. Do đó, việc diễn giải các kết quả có thể bị giới hạn và nhiễu bởi nhiều biến số. Vì vậy, cần có thêm các nghiên cứu để xác định chiến lược hiệu quả nhất nhằm tối ưu hóa kết quả IVF.
Kết luận
Nghiên cứu nhận thấy có sự khác biệt hạn chế trong việc sử dụng O2 hai pha trong nuôi cấy phôi. Những tác động hạn chế này không làm cải thiện kết quả mang thai trong nghiên cứu.
Nguồn: Patel D, Patel RG, Patel T, Patel N, Maheshwari N. Limited Effects of Ultra-low Oxygen Concentration during Extended Embryo Culture on In vitro Fertilisation Outcomes in Indian Women: A Retrospective Cross-sectional Study. J Hum Reprod Sci. 2023 Oct-Dec;16(4):324-332. doi: 10.4103/jhrs.jhrs_143_23. Epub 2023 Dec 29. PMID: 38322644; PMCID: PMC10841928.
Giới thiệu
Trong những năm gần đây, trữ lạnh phôi trở nên phổ biến hơn để giảm thiểu mức độ nghiêm trọng của hội chứng quá kích buồng trứng. Một số nghiên cứu lâm sàng đã so sánh kết quả lâm sàng giữa chuyển phôi tươi (fresh embryo transfer- ET) và chuyển phôi trữ (frozen embryo transfer – FET) cho thấy tỉ lệ sinh sống và mang thai cao hơn ở nhóm FET. Tuy nhiên có nhiều báo cáo cho thấy FET có liên quan đến các kết quả bất lợi như cân nặng khi sinh cao và rối loạn tăng huyết áp khi mang thai. Bên cạnh đó, sự thành công của IVF phần lớn phụ thuộc vào sự phát triển của phôi.
Tại các phòng lab, sự phát triển và làm tổ của phôi được thúc đẩy bằng cách mô phỏng môi trường in vitro với các điều kiện về độ pH, nhiệt độ, thành phần môi trường nuôi cấy và thành phần khí bên trong tủ cấy. Nồng độ oxy (O2) được cho là đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của phôi. Các nghiên cứu gần đây cho thấy nồng độ O2 trong ống dẫn trứng và tử cung lần lượt là 5% và 2%. Do đó hầu hết các trung tâm hiện nay, thực hiện nuôi cấy với điều kiện 5% O2. Nồng độ O2 cao hơn có thể ảnh hưởng đến cấu trúc protein, tiềm năng màng trong ty thể, chuyển hóa phôi, quá trình methyl hóa DNA và biểu hiện gen.
Nghiên cứu hiện tại nhằm mục đích khám phá tác động của ET và FET ở nồng độ O2 5% và 2% lên các thông số khác nhau của thai kỳ.
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện tại Ấn Độ từ tháng 1 năm 2021 đến tháng 1 năm 2022
Đối tượng nghiên cứu là 382 phụ nữ từ 22 đến 53 tuổi, tiền sử vô sinh ít nhất một năm và nhận noãn từ người hiến. Tất cả chu kì thực hiện ICSI, bao gồm tinh trùng thủ thuật. Tiêu chí loại: chu kỳ thực hiện xét nghiệm phôi tiền làm tổ.
Từ tháng 1 năm 2021 đến tháng 5 năm 2021 phôi được nuôi cấy trong môi trường O2 5% (n=176)
Từ tháng 6 năm 2021 đến tháng 1 năm 2022 phôi được nuôi cấy trong môi trường O2 2% (n=206)
Phôi được nuôi cấy trong tủ nuôi MINC (Cook, Úc) với điều kiện nhiệt độ 370C, độ ẩm cao và sử dụng khí trộn (5% CO2, 5% O2 và N2 cân bằng). Sử dụng môi trường nuôi cấy đơn bước (SAGE, Origio, Đan Mạch), phôi được nuôi cấy nhóm 3-5 phôi một giọt môi trường nuôi cấy. Noãn sau thụ tinh được nuôi cấy trong điều kiện 5% O2 cho đến ngày 3, tiến hành đánh giá chất lượng phôi ngày 3, những phôi có cùng phân loại được nuôi cấy chung trong điều kiện 5% O2 hoặc 2% O2 tùy vào thời gian nghiên cứu. Giai đoạn phôi nang, phôi được đánh giá phân loại theo hệ thống Gardner và Schoolcraft.
Trong nghiên cứu, các phôi nở hoàn toàn, có thể thấy rõ ICM và TE được chọn để chuyển phôi tươi. Các phôi nở độ 3 và có ICM loại A hoặc B được trữ lại vào ngày 5 hoặc 6.
Kết quả chính: tỉ lệ mang thai, tỉ lệ làm tổ
Kết quả phụ: tỉ lệ phá thai, tỉ lệ sinh đôi và tỉ lệ sinh sống.
Kết quả
Không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm (5% và 2%) về tỷ lệ mang thai và tỷ lệ làm tổ dù là phôi tươi hay phôi trữ. Tuy nhiên phôi được nuôi cấy trong môi trường 2% O2 có tỷ lệ làm tổ tốt hơn khi chuyển phôi tươi so với chuyển phôi trữ (71,34% so với 61,46%, p=0,04). Tỷ lệ sinh sống giữa các nhóm 5% O2 và 2% O2 sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Trong nhóm chuyển phôi tươi được nuôi cấy ở 2% O2 có tỷ lệ đa thai cao hơn so với nhóm 5% O2 (50,6% so với 33,3%; P = 0,047). Bên cạnh đó, trong nhóm được chuyển phôi trữ, tỷ lệ sảy thai nhóm 5% O2 cao hơn nhóm 2% O2 (24,71 so với 11,49; P = 0,02). Bên cạnh đó, tỷ lệ mang thai và tỷ lệ sảy thai ở nhóm 5% O2 và 2% O2 khi chuyển phôi loại 1 không có sự khác biệt đáng kể
Khi phân chia theo nhóm tuổi (>35 tuổi và <35 tuổi). Kết quả mang thai ở nhóm >35 tuổi không có sự khác biệt ở cả hai nhóm điều kiện nuôi cấy là 5% và 2% với phương pháp chuyển phôi tươi hay trữ. Tuy nhiên, nhóm tuổi <35 tuổi cho thấy tỷ lệ mang thai cao hơn đáng kể (94,12%) khi được chyển phôi tươi so với chuyển phôi trữ (69,44%) và sự khác biệt có ý nghĩa thống kể (p=0,045). Tỷ lệ phôi chất lượng tốt nhóm 5% O2 cao hơn so với nhóm 2% O2 ở cả hai nhóm chuyển phôi tươi và phôi trữ.
Thảo luận
Các nghiên cứu gần đây đã xác định nuôi cấy phôi trong điều kiện O2 5% giúp cải thiện số lượng và chất lượng phôi nang hơn so với phôi nuôi cấy trong điều kiện oxy khí quyển. Từ đó, các hướng nghiên cứu mới mở ra như đánh giá các phương pháp khác nhau sử dụng O2 5% và 2% trong nuôi cấy hoặc sử dụng O2 một pha hoặc hai pha.
Phôi sau nuôi cấy, các phôi được cân nhắc giữa chuyển phôi tươi hay phôi trữ. Những năm gần đây, chuyển phôi trữ đã trở nên phổ biến hơn nhờ những lợi ích như giảm nguy cơ trẻ nhẹ cân, sinh non. Tăng tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ mang thai và ít biến chứng trong thai kỳ, sinh nở. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho rằng cả hai phương pháp đều tương đồng về tỉ lệ mang thai và số ca sinh sống.
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phôi chất lượng tốt cao hơn ở nhóm 5% O2 so với nhóm 2% O2 cả chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ. Tuy nhiên, số lượng phôi chất lượng tốt cao hơn không dẫn đến kết quả mang thai tốt hơn.
Nghiên cứu có một số hạn chế như đây là nghiên cứu hồi cứu với cỡ mẫu nhỏ. Hơn nữa, tính không đồng nhất của nhóm đối tượng nghiên cứu về các nguyên nhân gây vô sinh. Do đó, việc diễn giải các kết quả có thể bị giới hạn và nhiễu bởi nhiều biến số. Vì vậy, cần có thêm các nghiên cứu để xác định chiến lược hiệu quả nhất nhằm tối ưu hóa kết quả IVF.
Kết luận
Nghiên cứu nhận thấy có sự khác biệt hạn chế trong việc sử dụng O2 hai pha trong nuôi cấy phôi. Những tác động hạn chế này không làm cải thiện kết quả mang thai trong nghiên cứu.
Nguồn: Patel D, Patel RG, Patel T, Patel N, Maheshwari N. Limited Effects of Ultra-low Oxygen Concentration during Extended Embryo Culture on In vitro Fertilisation Outcomes in Indian Women: A Retrospective Cross-sectional Study. J Hum Reprod Sci. 2023 Oct-Dec;16(4):324-332. doi: 10.4103/jhrs.jhrs_143_23. Epub 2023 Dec 29. PMID: 38322644; PMCID: PMC10841928.
Các tin khác cùng chuyên mục:









HỘI VIÊN
CỘNG TÁC VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK