Tin tức
on Saturday 04-12-2021 5:01pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Ngọc Huệ - IVFMD Bình Dương
Chất lượng phôi trong hỗ trợ sinh sản được đánh giá chủ yếu dựa trên tiêu chuẩn phân loại về hình thái phôi nhằm chọn lựa các phôi có tiềm năng để sử dụng. Đối với phôi phân chia, các đánh giá bao gồm số phôi bào, độ đồng đều giữa các phôi bào và mức độ phân mảnh. Số lượng phôi bào tại thời điểm ngày 3 sẽ phản ánh khả năng phân chia và được xem là một trong những chỉ số dự đoán tiềm năng phát triển của phôi. Các nghiên cứu cho thấy đối với phôi phân chia ngày 3 có số lượng phôi bào ít, tiềm năng phát triển và tỉ lệ thai sẽ giảm, tỉ lệ sẩy thai tăng ở nhóm chuyển các phôi ngày 3 có ít hơn 6 phôi bào. Kết quả báo cáo từ một nghiên cứu khác cho thấy tiềm năng phát triển ở phôi ≤ 6 phôi bào giảm so với phôi ≥ 7 phôi bào. Do đó, phôi ngày 3 với số phôi bào ít hơn 6 thường không được sử dụng thường quy tại nhiều trung tâm. Một số trung tâm lựa chọn nuôi cấy phôi đến giai đoạn phôi nang nhằm tăng tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống, tuy nhiên thông tin về tỉ lệ phôi nang và các kết quả lâm sàng trong các chu kỳ chuyển phôi đông lạnh của phôi ngày 3 có số lượng phôi bào ≤ 6 là rất hạn chế. Nghiên cứu này (2021) nhằm mục đích đánh giá tiềm năng phát triển và tỉ lệ thai khi phân tích các kết quả lâm sàng ở phôi ngày 3 có ≤ 6 phôi bào và phôi nang được rã nuôi từ các phôi này.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ tháng 1-2013 đến 12-2016 trên 6331 chu kì IVF/ICSI và được chia thành 4 nhóm với số phôi bào vào ngày 3 như sau: nhóm 1 có 4-5 phôi bào, nhóm 2 có 6 phôi bào, nhóm 3 có 7-9 phôi bào và nhóm 4 có > 9 phôi bào. Tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ sẩy thai được phân tích giữa các nhóm ở chu kì chuyển phôi tươi. Các phôi ngày 3 được đông lạnh và rã nuôi, tỉ lệ hình thành phôi nang, tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt và tỉ lệ phôi nang hữu dụng được so sánh ở các nhóm. Tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ sẩy thai ở chu kỳ chuyển phôi ngày 3 rã đông và nuôi cấy đến phôi nang cũng được đánh giá.
Kết quả cho thấy:
- Trong các chu kỳ chuyển phôi tươi, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai lâm sàng giảm đáng kể ở nhóm 1 và 2 so với nhóm 3 và 4 (p <0,05). Tỉ lệ sẩy thai tăng đáng kể ở nhóm 2 so với các nhóm còn lại (p <0,05).
- Tỉ lệ hình thành phôi nang từ phôi ở nhóm 2 là 41,73%, thấp hơn so với nhóm 3 (53,83%) và nhóm 4 (58,27%), nhưng cao hơn so với nhóm 1 (28,17%), p <0,01.
- Trong các chu kỳ chuyển phôi rã nuôi, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ làm tổ cho một chu kỳ chuyển đơn phôi nang không có sự khác biệt đáng kể ở nhóm 1 và 2 so với nhóm 3 và 4 (p>0,05). Tuy nhiên, tỉ lệ sẩy thai ở nhóm 1 cao hơn đáng kể so với nhóm 3 và 4 (p<0,05). Trong chu kỳ chuyển hai phôi, tỉ lệ thai lâm sàng không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm 1, 2 và nhóm 3 (p>0,05).
Như vậy, các kết quả từ nghiên cứu cho thấy tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai lâm sàng giảm đáng kể ở nhóm có 4–5 và 6 phôi bào so với nhóm có 7–9 và >9 phôi bào khi chuyển phôi tươi. Đối với các phôi ngày 3 có ≤ 6 phôi bào (đặc biệt là phôi 6 tế bào) được nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang cho kết quả không khác biệt khi so sánh với phôi nang từ phôi ngày 3 có ≥7 phôi bào.
Tài liệu tham khảo:
Li, B., Huang, J., Li, L. và cộng sự. Improving the clinical outcomes by extended culture of day 3 embryos with low blastomere number to blastocyst stage following frozen–thawed embryo transfer. Archives of Gynecology and Obstetrics. 2021. 303(2); 573-580.
Chất lượng phôi trong hỗ trợ sinh sản được đánh giá chủ yếu dựa trên tiêu chuẩn phân loại về hình thái phôi nhằm chọn lựa các phôi có tiềm năng để sử dụng. Đối với phôi phân chia, các đánh giá bao gồm số phôi bào, độ đồng đều giữa các phôi bào và mức độ phân mảnh. Số lượng phôi bào tại thời điểm ngày 3 sẽ phản ánh khả năng phân chia và được xem là một trong những chỉ số dự đoán tiềm năng phát triển của phôi. Các nghiên cứu cho thấy đối với phôi phân chia ngày 3 có số lượng phôi bào ít, tiềm năng phát triển và tỉ lệ thai sẽ giảm, tỉ lệ sẩy thai tăng ở nhóm chuyển các phôi ngày 3 có ít hơn 6 phôi bào. Kết quả báo cáo từ một nghiên cứu khác cho thấy tiềm năng phát triển ở phôi ≤ 6 phôi bào giảm so với phôi ≥ 7 phôi bào. Do đó, phôi ngày 3 với số phôi bào ít hơn 6 thường không được sử dụng thường quy tại nhiều trung tâm. Một số trung tâm lựa chọn nuôi cấy phôi đến giai đoạn phôi nang nhằm tăng tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống, tuy nhiên thông tin về tỉ lệ phôi nang và các kết quả lâm sàng trong các chu kỳ chuyển phôi đông lạnh của phôi ngày 3 có số lượng phôi bào ≤ 6 là rất hạn chế. Nghiên cứu này (2021) nhằm mục đích đánh giá tiềm năng phát triển và tỉ lệ thai khi phân tích các kết quả lâm sàng ở phôi ngày 3 có ≤ 6 phôi bào và phôi nang được rã nuôi từ các phôi này.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ tháng 1-2013 đến 12-2016 trên 6331 chu kì IVF/ICSI và được chia thành 4 nhóm với số phôi bào vào ngày 3 như sau: nhóm 1 có 4-5 phôi bào, nhóm 2 có 6 phôi bào, nhóm 3 có 7-9 phôi bào và nhóm 4 có > 9 phôi bào. Tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ sẩy thai được phân tích giữa các nhóm ở chu kì chuyển phôi tươi. Các phôi ngày 3 được đông lạnh và rã nuôi, tỉ lệ hình thành phôi nang, tỉ lệ phôi nang chất lượng tốt và tỉ lệ phôi nang hữu dụng được so sánh ở các nhóm. Tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ sẩy thai ở chu kỳ chuyển phôi ngày 3 rã đông và nuôi cấy đến phôi nang cũng được đánh giá.
Kết quả cho thấy:
- Trong các chu kỳ chuyển phôi tươi, tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai lâm sàng giảm đáng kể ở nhóm 1 và 2 so với nhóm 3 và 4 (p <0,05). Tỉ lệ sẩy thai tăng đáng kể ở nhóm 2 so với các nhóm còn lại (p <0,05).
- Tỉ lệ hình thành phôi nang từ phôi ở nhóm 2 là 41,73%, thấp hơn so với nhóm 3 (53,83%) và nhóm 4 (58,27%), nhưng cao hơn so với nhóm 1 (28,17%), p <0,01.
- Trong các chu kỳ chuyển phôi rã nuôi, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ làm tổ cho một chu kỳ chuyển đơn phôi nang không có sự khác biệt đáng kể ở nhóm 1 và 2 so với nhóm 3 và 4 (p>0,05). Tuy nhiên, tỉ lệ sẩy thai ở nhóm 1 cao hơn đáng kể so với nhóm 3 và 4 (p<0,05). Trong chu kỳ chuyển hai phôi, tỉ lệ thai lâm sàng không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm 1, 2 và nhóm 3 (p>0,05).
Như vậy, các kết quả từ nghiên cứu cho thấy tỉ lệ làm tổ và tỉ lệ thai lâm sàng giảm đáng kể ở nhóm có 4–5 và 6 phôi bào so với nhóm có 7–9 và >9 phôi bào khi chuyển phôi tươi. Đối với các phôi ngày 3 có ≤ 6 phôi bào (đặc biệt là phôi 6 tế bào) được nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang cho kết quả không khác biệt khi so sánh với phôi nang từ phôi ngày 3 có ≥7 phôi bào.
Tài liệu tham khảo:
Li, B., Huang, J., Li, L. và cộng sự. Improving the clinical outcomes by extended culture of day 3 embryos with low blastomere number to blastocyst stage following frozen–thawed embryo transfer. Archives of Gynecology and Obstetrics. 2021. 303(2); 573-580.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy sau khi bảo tồn khả năng sinh sản ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung - cần đông lạnh bao nhiêu noãn? - Ngày đăng: 04-12-2021
Tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy sau khi bảo tồn khả năng sinh sản ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung - cần đông lạnh bao nhiêu noãn? - Ngày đăng: 04-12-2021
Sự hình thành phôi nang là tương tự nhau giữa phụ nữ béo phì và phụ nữ có cân nặng bình thường: một nghiên cứu động học hình thái phôi - Ngày đăng: 04-12-2021
Chất lượng phôi, tỷ lệ nguyên bội và kết quả chuyển phôi trên phôi nang có giới tính nam so với nữ - Ngày đăng: 03-12-2021
Tác động của nhiệt độ môi trường xung quanh lên dự trữ buồng trứng - Ngày đăng: 03-12-2021
Kỹ thuật hỗ trợ thoát màng bằng cách làm mỏng màng ZP bằng tia laser không giúp cải thiện tỷ lệ thai của phôi nang chất lượng kém trong chu kỳ chuyển phôi trữ: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 30-11-2021
Mối tương quan giữa uống nước ngọt và chức năng tinh hoàn ở nam giới trẻ tuổi - Ngày đăng: 30-11-2021
Mối liên hệ giữa trầm cảm, stress oxy hóa và chất lượng tinh dịch từ 1.000 nam giới khỏe mạnh - Ngày đăng: 30-11-2021
Giá trị dự đoán của các kiểu bào tương hạt ở các noãn MII trong IVF: phần II, noãn hiến tặng trong chu kỳ xin-cho noãn - Ngày đăng: 30-11-2021
Quan điểm hiện tại về trữ noãn xã hội - Ngày đăng: 28-11-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK