Tin tức
on Tuesday 30-11-2021 10:31pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Thị Kim Ngân - IVFMD Tân Bình
Chất lượng noãn ảnh hưởng phần lớn đến chất lượng phôi, do vậy noãn có vai trò quan trọng quyết định kết quả trong IVF. Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng việc xác định chính xác chất lượng noãn có thể cho kết quả tiên lượng tốt hơn so với đánh giá chất lượng phôi thông qua các tiêu chuẩn hình thái. Một số đặc điểm của noãn như hình dạng, độ dày zona bất thường, khoảng không quanh noãn lớn và có thể chứa các hạt, thể cực có kích thước bất thường hoặc bị phân mảnh, hình dạng không đều của màng ZP, … đã được báo cáo là có liên quan đến giảm khả năng mang thai sau IVF. Ngoài ra, các bất thường cũng có thể liên quan đến tế bào chất, như các cụm lưới nội chất trơn, không bào và hạt.
Các mô hình về hạt bào tương ở noãn trưởng thành (metaphase II - MII) đã được báo cáo ở người cách đây nhiều thập kỷ. Các báo các báo gần đây cho thấy mô hình hạt bào tương trung tâm (các hạt bào tương phân định rõ ràng, dày đặc ở trung tâm noãn hơn so với các vùng tế bào chất lân cận) có mối tương quan với sự trưởng thành noãn, thụ tinh, phát triển sớm của phôi và kết quả mang thai. Trong nghiên cứu trước của tác giả Jianjun Hu và cộng sự, đối với nhóm bệnh nhân lớn tuổi có tiên lượng xấu, 4 kiểu hình hạt bào tương ở noãn MII đã cho thấy có giá trị tiên đoán cho kết quả thụ tinh, mang thai và sinh sống trong chu kỳ IVF. Kết quả càng cho thấy tầm quan trọng cũng như tiềm năng của đánh giá kiểu hình hạt bào tương ở noãn trong cân nhắc lựa chọn phôi. Để có một dữ liệu toàn diện hơn, tác giả Jianjun Hu và cộng sự (2021) đã tiếp tục tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá mối tương quan giữa các kiểu hình hạt bào tương ở noãn MII từ những phụ nữ trẻ tuổi trong các chu kỳ xin-cho noãn với kết quả đạt được sau IVF.
Nghiên cứu được thực hiện với 770 noãn MII tươi và 381 noãn MII đông lạnh từ những phụ nữ hiến tặng trẻ tuổi (từ 21,0–34,6 tuổi) được sử dụng cho IVF từ năm 2017–2020. Dựa trên kích thước và sự phân bố của hạt bào tương, noãn sẽ được phân loại thành 5 nhóm chính: (1) hạt mịn (tế bào chất đồng nhất với các hạt nhỏ và không có các cụm hạt); (2) hạt trung tâm (đặc trưng bởi một cụm hạt lớn nằm ở trung tâm); (3) hạt phân tán (chứa đầy các hạt kích thước lớn với đường kính > 1μm); (4) hạt không đồng đều (một số vùng chứa các hạt kích thước lớn, các vùng khác chứa các hạt mịn) và (5) hạt ngoại vi (chỉ quan sát thấy ở noãn sau đông lạnh; với các hạt lớn nằm ở ngoại vi, vùng trung tâm chứa đầy các hạt mịn). Số lượng noãn ở từng nhóm hình thái sẽ được ghi nhận và phân tích tương quan với kết quả thụ tinh, mang thai, sinh sống sau IVF.
Kết quả thu được như sau:
+ Tỷ lệ mang thai có xu hướng giảm từ 50,4% xuống 29,0%, 17,7% và 6,9%, cũng như tỷ lệ sinh sống (43,4%, 21,6%, 12,5% và 6,4%), từ hạt mịn đến không đều, trung tâm và phân tán. Các phân tích thai kỳ và sinh sống cho thấy những phát hiện tương tự.
Giá trị tiên đoán của các kiểu hình hạt bào tương từ noãn MII ở những phụ nữ hiến tặng trẻ tuổi đối với kết quả thụ tinh, mang thai và sinh sống trong các chu kỳ IVF thậm chí còn rõ ràng hơn so với kết quả ở những bệnh nhân lớn tuổi có tiên lượng xấu. Kết quả của nghiên cứu lần nữa đã cho thấy tầm quan trọng cũng như tiềm năng của đánh giá kiểu hình hạt bào tương ở noãn trong cân nhắc lựa chọn phôi.
Nguồn: Hu, J., Molinari, E., Darmon, S., L., Patrizio, P., Barad, D. H., & Gleicher, N., Predictive value of cytoplasmic granulation patterns during in vitro fertilization in metaphase II oocytes: part II, donor oocyte cycles. Fertility and Sterility 2021.
Chất lượng noãn ảnh hưởng phần lớn đến chất lượng phôi, do vậy noãn có vai trò quan trọng quyết định kết quả trong IVF. Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng việc xác định chính xác chất lượng noãn có thể cho kết quả tiên lượng tốt hơn so với đánh giá chất lượng phôi thông qua các tiêu chuẩn hình thái. Một số đặc điểm của noãn như hình dạng, độ dày zona bất thường, khoảng không quanh noãn lớn và có thể chứa các hạt, thể cực có kích thước bất thường hoặc bị phân mảnh, hình dạng không đều của màng ZP, … đã được báo cáo là có liên quan đến giảm khả năng mang thai sau IVF. Ngoài ra, các bất thường cũng có thể liên quan đến tế bào chất, như các cụm lưới nội chất trơn, không bào và hạt.
Các mô hình về hạt bào tương ở noãn trưởng thành (metaphase II - MII) đã được báo cáo ở người cách đây nhiều thập kỷ. Các báo các báo gần đây cho thấy mô hình hạt bào tương trung tâm (các hạt bào tương phân định rõ ràng, dày đặc ở trung tâm noãn hơn so với các vùng tế bào chất lân cận) có mối tương quan với sự trưởng thành noãn, thụ tinh, phát triển sớm của phôi và kết quả mang thai. Trong nghiên cứu trước của tác giả Jianjun Hu và cộng sự, đối với nhóm bệnh nhân lớn tuổi có tiên lượng xấu, 4 kiểu hình hạt bào tương ở noãn MII đã cho thấy có giá trị tiên đoán cho kết quả thụ tinh, mang thai và sinh sống trong chu kỳ IVF. Kết quả càng cho thấy tầm quan trọng cũng như tiềm năng của đánh giá kiểu hình hạt bào tương ở noãn trong cân nhắc lựa chọn phôi. Để có một dữ liệu toàn diện hơn, tác giả Jianjun Hu và cộng sự (2021) đã tiếp tục tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá mối tương quan giữa các kiểu hình hạt bào tương ở noãn MII từ những phụ nữ trẻ tuổi trong các chu kỳ xin-cho noãn với kết quả đạt được sau IVF.
Nghiên cứu được thực hiện với 770 noãn MII tươi và 381 noãn MII đông lạnh từ những phụ nữ hiến tặng trẻ tuổi (từ 21,0–34,6 tuổi) được sử dụng cho IVF từ năm 2017–2020. Dựa trên kích thước và sự phân bố của hạt bào tương, noãn sẽ được phân loại thành 5 nhóm chính: (1) hạt mịn (tế bào chất đồng nhất với các hạt nhỏ và không có các cụm hạt); (2) hạt trung tâm (đặc trưng bởi một cụm hạt lớn nằm ở trung tâm); (3) hạt phân tán (chứa đầy các hạt kích thước lớn với đường kính > 1μm); (4) hạt không đồng đều (một số vùng chứa các hạt kích thước lớn, các vùng khác chứa các hạt mịn) và (5) hạt ngoại vi (chỉ quan sát thấy ở noãn sau đông lạnh; với các hạt lớn nằm ở ngoại vi, vùng trung tâm chứa đầy các hạt mịn). Số lượng noãn ở từng nhóm hình thái sẽ được ghi nhận và phân tích tương quan với kết quả thụ tinh, mang thai, sinh sống sau IVF.
Kết quả thu được như sau:
- Đối với noãn tươi:
+ Tỷ lệ mang thai có xu hướng giảm từ 50,4% xuống 29,0%, 17,7% và 6,9%, cũng như tỷ lệ sinh sống (43,4%, 21,6%, 12,5% và 6,4%), từ hạt mịn đến không đều, trung tâm và phân tán. Các phân tích thai kỳ và sinh sống cho thấy những phát hiện tương tự.
- Đối với noãn đông lạnh-rã đông: có xu hướng tương tự noãn tươi về kết quả thụ tinh, mang thai và sinh sống với các tỷ lệ tương đối thấp hơn. Đối với dạng hạt ngoại vi, cho kết quả IVF thấp nhất so với các nhóm khác.
- Chưa có mối tương quan rõ ràng giữa kiểu hình hạt bào tương với cấp hình thái phôi ở noãn tươi. Ở noãn đông lạnh-rã đông cũng không thấy có sự khác biệt đáng kể, tuy nhiên, ở các phôi xếp loại “kém”, kiểu hình hạt ngoại vi được ghi nhận với tần suất cao hơn hẳn so với các phôi được xếp loại “xuất sắc”.
Giá trị tiên đoán của các kiểu hình hạt bào tương từ noãn MII ở những phụ nữ hiến tặng trẻ tuổi đối với kết quả thụ tinh, mang thai và sinh sống trong các chu kỳ IVF thậm chí còn rõ ràng hơn so với kết quả ở những bệnh nhân lớn tuổi có tiên lượng xấu. Kết quả của nghiên cứu lần nữa đã cho thấy tầm quan trọng cũng như tiềm năng của đánh giá kiểu hình hạt bào tương ở noãn trong cân nhắc lựa chọn phôi.
Nguồn: Hu, J., Molinari, E., Darmon, S., L., Patrizio, P., Barad, D. H., & Gleicher, N., Predictive value of cytoplasmic granulation patterns during in vitro fertilization in metaphase II oocytes: part II, donor oocyte cycles. Fertility and Sterility 2021.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Quan điểm hiện tại về trữ noãn xã hội - Ngày đăng: 28-11-2021
Lạc nội mạc tử cung ở bệnh nhân thất bại làm tổ liên tiếp ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh sống tích lũy ở chu kỳ IVF/ICSI - Ngày đăng: 28-11-2021
Đánh giá phôi phát triển từ 0PN trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển thông qua hệ thống timelapse - Ngày đăng: 27-11-2021
Thu nhận tinh trùng từ tinh hoàn bằng vi phẫu (micro‑TESE) ở nam giới vô tinh không do tắc: tổng hợp các y văn cho đến hiện tại - Ngày đăng: 19-11-2021
Việc loại bỏ tinh trùng apoptotic trong quy trình IVF và ảnh hưởng của nó đến tỷ lệ thai - Ngày đăng: 19-11-2021
Ảnh hưởng của cysteine và glutamine lên các thông số chức năng của tinh trùng người trong quá trình thủy tinh hóa - Ngày đăng: 19-11-2021
Virus HPV trong tinh trùng có thể được loại bỏ hiệu quả bằng phương pháp lọc rửa: một cách tiếp cận phù hợp cho hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 16-11-2021
Hiệu quả của PGT-A đối với nam giới vô sinh mức độ nặng - Ngày đăng: 16-11-2021
Tiên lượng tỷ lệ sống của phôi và trẻ sinh sống sau chuyển phôi nang đông lạnh được thuỷ tinh hóa - Ngày đăng: 12-11-2021
Cập nhật khuyến cáo của CDC 2021 về điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục (phần 3) - Ngày đăng: 12-11-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK