Tin tức
on Tuesday 16-11-2021 4:07pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phan Thanh Chi – IVFMDTB
Human papillomaviruses (HPV) là một họ virus có DNA trần thường xâm nhập vào các tế bào biểu mô của cơ thể, ước tính khoảng 75% dân số thế giới nhiễm HPV. Bên cạnh nguy cơ gây ung thư tinh hoàn, nam giới bị nhiễm HPV có chức năng sinh sản giảm cũng như tỷ lệ thành công khi điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) thấp. Một số nghiên cứu cho thấy
các cặp đôi có chồng nhiễm HPV thực hiện TTTON phải đối mặt với nguy cơ sảy thai cao, đây cũng được xem là một trong những yếu tố dự đoán nguy cơ sảy thai. Mặc dù các nghiên cứu về tác động của HPV đến tinh trùng ngày càng tăng nhưng vẫn chưa rõ liệu HPV có tồn tại ở tinh dịch hay các tế bào của quá trình sinh tinh hay không. Nhiều tác giả báo cáo kết quả dương tính HPV trên tổng thể tinh trùng, nhưng chỉ một số ít trong đó xác nhận HPV hiện diện bên trong tế bào sinh tinh. Nhờ vào kỹ thuật FISH (Fluorescence In-Situ Hybridization), Foresta và các cộng sự (2010) đã quan sát thấy sự hiện diện của DNA virus HPV ở vùng xích đạo của đầu tinh trùng trong 25% tổng số tinh trùng khảo sát. Tương tự, HPV cũng được tìm thấy ở đầu tinh trùng trong nghiên cứu của Pérez-Andino và các cộng sự (2009). Tuy nhiên, những quan sát này được thực hiện trong ống nghiệm khi tinh trùng được ủ chung với virus. Gần đây, Capra và các cộng sự (2019) đã phát triển một phương pháp mới nhằm đánh giá sự tồn tại của HPV trong các thành phần tế bào khác nhau của tinh dịch. Kết quả cho thấy DNA virus HPV thuộc một hoặc nhiều kiểu gen khác nhau tồn tại trong các phần khác nhau của tinh tương.
Mối liên hệ giữa virus HPV và giảm khả năng sinh sản vẫn được chấp nhận rộng rãi, tuy nhiên chưa có bất kì xác nhận nào về nơi khu trú thật sự của HPV trong tinh dịch. Điều này làm dấy lên lo ngại khi nhu cầu hiến tặng tinh trùng hay trữ tinh trùng để điều trị đang cao, đặc biệt trong trường hợp tinh dịch dương tính với HPV. Do đó, nghiên cứu này (2020) đã tiến hành tìm hiểu sự khu trú phổ biến của HPV trong các phân lớp khác nhau của tinh dịch, đồng thời xác nhận xem liệu kỹ thuật lọc rửa được sử dụng để loại bỏ virus HIV có hiệu quả trong việc loại bỏ virus HPV ra khỏi tinh trùng hay không và liệu có thể sử dụng quy trình lọc rửa này trong thực hành lâm sàng?
Nghiên cứu được thực hiện trên 15 người đàn ông dương tính với HPV. Những người này có chỉ số BMI bình thường (18-25 kg/m2), có khả năng sinh sản, không mắc các bệnh truyền nhiễm virus mãn tính khác, không mắc các bệnh lý liên quan đến khả năng sinh sản như giãn tĩnh mạch thừng tinh, phẫu thuật tinh hoàn trước đó, rối loạn nội tiết hoặc ung thư hay nhiễm trùng Mycoplasma genitalium, Chlamydia trachomatis và Neisseria gonorrhoeae. Sau khi kiêng xuất tinh 3-7 ngày, tinh dịch được thu nhận và lọc rửa bằng phương pháp thang nồng độ (Gradient) với nồng độ 40% và 80% kết hợp với phương pháp bơi lên (Swim-up). Sau cùng, tất cả năm phân lớp bao gồm tinh tương, các mảnh tế bào, tế bào tròn, tinh trùng không di động và tinh trùng di động được thực hiện kỹ thuật Nested PCR để kiểm tra sự hiện diện của DNA virus HPV.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong số 15 người dương tính với virus HPV có độ tuổi trung bình là 32,3 ± 7,9 tuổi thì có 67% (N=10) dương tính ở ít nhất một phân lớp và lớp tinh tương luôn cho kết quả dương tính với HPV. Đặc biệt, sau quy trình lọc rửa và thực hiện Swim-up, phần cặn lắng chứa tinh trùng di động không cho kết quả dương tính với HPV.
Tóm lại, kỹ thuật lọc rửa để loại bỏ virus HIV có thể dùng để loại bỏ virus HPV ra khỏi tinh trùng một cách hiệu quả. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại được thực hiện trên cỡ mẫu nhỏ nên cần nhiều nghiên cứu lớn hơn trong tương lai để làm sáng tỏ vấn đề này. Việc sàng lọc HPV nên được thực hiện trong các mẫu tinh trùng. Một khi xác định được tình trạng dương tính với HPV, việc lọc rửa tinh trùng nên được xem xét trước khi sử dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Nguồn: Claudio Fenizia, Cecilia Vittori, Monica Oneta, Bina Parrilla, Antonio Granata, Salomè Ibba, Mara Biasin, Mario Clerici, Daria Trabattoni, Valeria Savasi, Human papillomavirus in spermatozoa is efficiently removed by washing: a suitable approach for assisted reproduction, Reproductive BioMedicine Online, Volume 40, Issue 5, 2020, Pages 693-699, ISSN 1472-6483. Doi:10.1016/j.rbmo.2020.01.030.
Human papillomaviruses (HPV) là một họ virus có DNA trần thường xâm nhập vào các tế bào biểu mô của cơ thể, ước tính khoảng 75% dân số thế giới nhiễm HPV. Bên cạnh nguy cơ gây ung thư tinh hoàn, nam giới bị nhiễm HPV có chức năng sinh sản giảm cũng như tỷ lệ thành công khi điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) thấp. Một số nghiên cứu cho thấy
các cặp đôi có chồng nhiễm HPV thực hiện TTTON phải đối mặt với nguy cơ sảy thai cao, đây cũng được xem là một trong những yếu tố dự đoán nguy cơ sảy thai. Mặc dù các nghiên cứu về tác động của HPV đến tinh trùng ngày càng tăng nhưng vẫn chưa rõ liệu HPV có tồn tại ở tinh dịch hay các tế bào của quá trình sinh tinh hay không. Nhiều tác giả báo cáo kết quả dương tính HPV trên tổng thể tinh trùng, nhưng chỉ một số ít trong đó xác nhận HPV hiện diện bên trong tế bào sinh tinh. Nhờ vào kỹ thuật FISH (Fluorescence In-Situ Hybridization), Foresta và các cộng sự (2010) đã quan sát thấy sự hiện diện của DNA virus HPV ở vùng xích đạo của đầu tinh trùng trong 25% tổng số tinh trùng khảo sát. Tương tự, HPV cũng được tìm thấy ở đầu tinh trùng trong nghiên cứu của Pérez-Andino và các cộng sự (2009). Tuy nhiên, những quan sát này được thực hiện trong ống nghiệm khi tinh trùng được ủ chung với virus. Gần đây, Capra và các cộng sự (2019) đã phát triển một phương pháp mới nhằm đánh giá sự tồn tại của HPV trong các thành phần tế bào khác nhau của tinh dịch. Kết quả cho thấy DNA virus HPV thuộc một hoặc nhiều kiểu gen khác nhau tồn tại trong các phần khác nhau của tinh tương.
Mối liên hệ giữa virus HPV và giảm khả năng sinh sản vẫn được chấp nhận rộng rãi, tuy nhiên chưa có bất kì xác nhận nào về nơi khu trú thật sự của HPV trong tinh dịch. Điều này làm dấy lên lo ngại khi nhu cầu hiến tặng tinh trùng hay trữ tinh trùng để điều trị đang cao, đặc biệt trong trường hợp tinh dịch dương tính với HPV. Do đó, nghiên cứu này (2020) đã tiến hành tìm hiểu sự khu trú phổ biến của HPV trong các phân lớp khác nhau của tinh dịch, đồng thời xác nhận xem liệu kỹ thuật lọc rửa được sử dụng để loại bỏ virus HIV có hiệu quả trong việc loại bỏ virus HPV ra khỏi tinh trùng hay không và liệu có thể sử dụng quy trình lọc rửa này trong thực hành lâm sàng?
Nghiên cứu được thực hiện trên 15 người đàn ông dương tính với HPV. Những người này có chỉ số BMI bình thường (18-25 kg/m2), có khả năng sinh sản, không mắc các bệnh truyền nhiễm virus mãn tính khác, không mắc các bệnh lý liên quan đến khả năng sinh sản như giãn tĩnh mạch thừng tinh, phẫu thuật tinh hoàn trước đó, rối loạn nội tiết hoặc ung thư hay nhiễm trùng Mycoplasma genitalium, Chlamydia trachomatis và Neisseria gonorrhoeae. Sau khi kiêng xuất tinh 3-7 ngày, tinh dịch được thu nhận và lọc rửa bằng phương pháp thang nồng độ (Gradient) với nồng độ 40% và 80% kết hợp với phương pháp bơi lên (Swim-up). Sau cùng, tất cả năm phân lớp bao gồm tinh tương, các mảnh tế bào, tế bào tròn, tinh trùng không di động và tinh trùng di động được thực hiện kỹ thuật Nested PCR để kiểm tra sự hiện diện của DNA virus HPV.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong số 15 người dương tính với virus HPV có độ tuổi trung bình là 32,3 ± 7,9 tuổi thì có 67% (N=10) dương tính ở ít nhất một phân lớp và lớp tinh tương luôn cho kết quả dương tính với HPV. Đặc biệt, sau quy trình lọc rửa và thực hiện Swim-up, phần cặn lắng chứa tinh trùng di động không cho kết quả dương tính với HPV.
Tóm lại, kỹ thuật lọc rửa để loại bỏ virus HIV có thể dùng để loại bỏ virus HPV ra khỏi tinh trùng một cách hiệu quả. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện tại được thực hiện trên cỡ mẫu nhỏ nên cần nhiều nghiên cứu lớn hơn trong tương lai để làm sáng tỏ vấn đề này. Việc sàng lọc HPV nên được thực hiện trong các mẫu tinh trùng. Một khi xác định được tình trạng dương tính với HPV, việc lọc rửa tinh trùng nên được xem xét trước khi sử dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Nguồn: Claudio Fenizia, Cecilia Vittori, Monica Oneta, Bina Parrilla, Antonio Granata, Salomè Ibba, Mara Biasin, Mario Clerici, Daria Trabattoni, Valeria Savasi, Human papillomavirus in spermatozoa is efficiently removed by washing: a suitable approach for assisted reproduction, Reproductive BioMedicine Online, Volume 40, Issue 5, 2020, Pages 693-699, ISSN 1472-6483. Doi:10.1016/j.rbmo.2020.01.030.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Hiệu quả của PGT-A đối với nam giới vô sinh mức độ nặng - Ngày đăng: 16-11-2021
Tiên lượng tỷ lệ sống của phôi và trẻ sinh sống sau chuyển phôi nang đông lạnh được thuỷ tinh hóa - Ngày đăng: 12-11-2021
Cập nhật khuyến cáo của CDC 2021 về điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục (phần 3) - Ngày đăng: 12-11-2021
Suy giảm các thông số tinh dịch đồ ở những bệnh nhân nhiễm SARS-CoV-2: Một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu - Ngày đăng: 12-11-2021
Phân tích và định lượng ảnh hưởng của vợ và chồng trong động học phôi giai đoạn đầu thông qua hệ thống timelapse - Ngày đăng: 12-11-2021
Tác động của nhiệt độ môi trường lên dự trữ buồng trứng - Ngày đăng: 04-12-2021
Hiệu quả của huyết tương giàu tiểu cầu tự thân (PRP) điều trị trên các bệnh nhân có tiền sử thất bại làm tổ nhiều lần - Ngày đăng: 10-11-2021
Ảnh hưởng của virus ZIKA đến sức khỏe sinh sản - Ngày đăng: 09-11-2021
Ảnh hưởng của virus ZIKA đến sức khỏe sinh sản - Ngày đăng: 09-11-2021
CÁC BIẾN THỂ ĐỒNG HỢP LẶN TRÊN GENE PANX1 GÂY RA TÌNH TRẠNG THOÁI HOÁ NOÃN VÀ VÔ SINH Ở NỮ GIỚI - Ngày đăng: 08-11-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK