Tin tức
on Tuesday 22-06-2021 10:47pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Thu Thảo - IVFMD Bình Dương
Hiện nay, việc tăng số lượng phôi trong thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) có thể thực hiện khả thi bằng cách sử dụng hai kỹ thuật: chuyển nhân tế bào soma (somatic cell nuclear transfer - SCNT) và phân tách phôi trong ống nghiệm (in vitro embryo splitting - IES). Trái ngược với SCNT - là một quy trình hoàn toàn nhân tạo, IES bắt chước quá trình phát triển tự nhiên xảy ra ở các phôi được tạo ra bằng kỹ thuật IVF. Vào năm 2008, một nghiên cứu đã cho thấy sự phát triển thành công thành phôi nang của phôi người được phân tách. Cho đến nay, rất ít thông tin về chất lượng của các phôi được tạo ra theo phương pháp này và những phát hiện này đang gây tranh cãi. Những nghiên cứu chỉ ra rằng các phôi bào từ phôi giai đoạn phân chia muộn và phôi có nguồn gốc từ phôi chất lượng tốt có hiệu quả phân tách cao hơn để phát triển đến giai đoạn phôi nang. Mặt khác, một nghiên cứu gần đây cho rằng cặp phôi phân tách được tạo ra bằng kỹ thuật IES không phù hợp cho mục đích lâm sàng cũng như nghiên cứu. Tuy nhiên, vì tách phôi là một phương pháp tiềm năng để cải thiện hiệu quả của phương pháp điều trị bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology - ART), nên kỹ thuật này đã được ủy ban đạo đức của Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ chấp thuận. Bên cạnh đó, sự khan hiếm của phôi người với chất lượng chấp nhận được để nghiên cứu, việc áp dụng công nghệ tách phôi có thể là một phương pháp hữu ích để tăng số lượng phôi người sẵn có. Do đó, các noãn chưa trưởng thành cũng như các phôi bất thường về nhiễm sắc thể có thể là nguồn phôi tốt sẵn có để ứng dụng IES. Mục đích của nghiên cứu này (2021) là để đánh giá tiềm năng áp dụng của một công nghệ đã phát triển - quy trình phân tách phôi trong ống nghiệm (IES), bao gồm đánh giá hiệu quả của nó ở các giai đoạn phôi sớm khác nhau (hiệu quả phân tách) và tỷ lệ phát triển thành công của cặp phôi phân tách đến giai đoạn phôi nang (hiệu quả phát triển). Chất lượng của phôi nang đôi cũng được đánh giá liên quan đến số lượng và tỉ lệ sống của tế bào.
Nghiên cứu thực hiện trên phôi chất lượng tốt ở giai đoạn 6-8 tế bào được phân loại theo nguồn gốc của chúng: 1- phôi hiến tặng đông lạnh (n = 20), 2 - phôi bất thường về nhiễm sắc thể (n = 32), 3 - phôi trinh sản (n = 22) và 4 - phôi có nguồn gốc từ của noãn trưởng thành trong ống nghiệm (rescue IVM) (n = 18). Sau IES, hiệu quả phân tách và phát triển được đánh giá. Bên cạnh đó, chất lượng phôi nang phát triển được đánh giá bằng phương pháp nhuộm Hoechst và propidium iodide (PI).
Kết quả cho thấy tỷ lệ cao của cả hiệu quả phân tách và phát triển ở phôi đông lạnh sau IES (lần lượt là 140% và 71,7%), tiếp theo là các phôi bất thường về nhiễm sắc thể (lần lượt là 96,8% và 52,5%). Các phôi được phát triển sau quy trình IVM có tỷ lệ phân tách và hiệu quả phát triển thấp hơn (lần lượt là 16,6% và 10,7%). Các phôi nang phát triển được đánh giá chất lượng bằng phương pháp nhuộm Hoechst và PI. Kết quả nhuộm Hoechst và PI cho thấy số lượng tế bào trung bình của nhóm đối chứng cao hơn (113,11 ± 16,01) so với cặp phôi phân tách A (phôi cho, 58 ± 12,2) và B (phôi nhận, 50,4 ± 8,5 ) (P ˂ 0,0001).
Nghiên cứu cho thấy những phôi bình thường về nhiễm sắc thể được đưa vào IES có nhiều khả năng phát triển thành phôi nang khả thi hơn. Về số lượng phôi được tạo ra bằng IES ngày càng tăng, quy trình này có thể được sử dụng cho những người đáp ứng kém với số lượng noãn hoặc phôi thấp. Theo đó, việc đánh giá tiềm năng phát triển của phôi sử dụng IES ở những người đáp ứng kém nên được thực hiện trong các nghiên cứu trong tương lai.
Tài liệu tham khảo: Marjan OMIDI, Mohammad Ali KHALILI, Azam AGHA-RAHIMI và cộng sự. Efficacy of the in vitro splitting of human preimplantation embryos from ART programs. Turkish Journal of Medical Sciences. 2021.
Hiện nay, việc tăng số lượng phôi trong thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) có thể thực hiện khả thi bằng cách sử dụng hai kỹ thuật: chuyển nhân tế bào soma (somatic cell nuclear transfer - SCNT) và phân tách phôi trong ống nghiệm (in vitro embryo splitting - IES). Trái ngược với SCNT - là một quy trình hoàn toàn nhân tạo, IES bắt chước quá trình phát triển tự nhiên xảy ra ở các phôi được tạo ra bằng kỹ thuật IVF. Vào năm 2008, một nghiên cứu đã cho thấy sự phát triển thành công thành phôi nang của phôi người được phân tách. Cho đến nay, rất ít thông tin về chất lượng của các phôi được tạo ra theo phương pháp này và những phát hiện này đang gây tranh cãi. Những nghiên cứu chỉ ra rằng các phôi bào từ phôi giai đoạn phân chia muộn và phôi có nguồn gốc từ phôi chất lượng tốt có hiệu quả phân tách cao hơn để phát triển đến giai đoạn phôi nang. Mặt khác, một nghiên cứu gần đây cho rằng cặp phôi phân tách được tạo ra bằng kỹ thuật IES không phù hợp cho mục đích lâm sàng cũng như nghiên cứu. Tuy nhiên, vì tách phôi là một phương pháp tiềm năng để cải thiện hiệu quả của phương pháp điều trị bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology - ART), nên kỹ thuật này đã được ủy ban đạo đức của Hiệp hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ chấp thuận. Bên cạnh đó, sự khan hiếm của phôi người với chất lượng chấp nhận được để nghiên cứu, việc áp dụng công nghệ tách phôi có thể là một phương pháp hữu ích để tăng số lượng phôi người sẵn có. Do đó, các noãn chưa trưởng thành cũng như các phôi bất thường về nhiễm sắc thể có thể là nguồn phôi tốt sẵn có để ứng dụng IES. Mục đích của nghiên cứu này (2021) là để đánh giá tiềm năng áp dụng của một công nghệ đã phát triển - quy trình phân tách phôi trong ống nghiệm (IES), bao gồm đánh giá hiệu quả của nó ở các giai đoạn phôi sớm khác nhau (hiệu quả phân tách) và tỷ lệ phát triển thành công của cặp phôi phân tách đến giai đoạn phôi nang (hiệu quả phát triển). Chất lượng của phôi nang đôi cũng được đánh giá liên quan đến số lượng và tỉ lệ sống của tế bào.
Nghiên cứu thực hiện trên phôi chất lượng tốt ở giai đoạn 6-8 tế bào được phân loại theo nguồn gốc của chúng: 1- phôi hiến tặng đông lạnh (n = 20), 2 - phôi bất thường về nhiễm sắc thể (n = 32), 3 - phôi trinh sản (n = 22) và 4 - phôi có nguồn gốc từ của noãn trưởng thành trong ống nghiệm (rescue IVM) (n = 18). Sau IES, hiệu quả phân tách và phát triển được đánh giá. Bên cạnh đó, chất lượng phôi nang phát triển được đánh giá bằng phương pháp nhuộm Hoechst và propidium iodide (PI).
Kết quả cho thấy tỷ lệ cao của cả hiệu quả phân tách và phát triển ở phôi đông lạnh sau IES (lần lượt là 140% và 71,7%), tiếp theo là các phôi bất thường về nhiễm sắc thể (lần lượt là 96,8% và 52,5%). Các phôi được phát triển sau quy trình IVM có tỷ lệ phân tách và hiệu quả phát triển thấp hơn (lần lượt là 16,6% và 10,7%). Các phôi nang phát triển được đánh giá chất lượng bằng phương pháp nhuộm Hoechst và PI. Kết quả nhuộm Hoechst và PI cho thấy số lượng tế bào trung bình của nhóm đối chứng cao hơn (113,11 ± 16,01) so với cặp phôi phân tách A (phôi cho, 58 ± 12,2) và B (phôi nhận, 50,4 ± 8,5 ) (P ˂ 0,0001).
Nghiên cứu cho thấy những phôi bình thường về nhiễm sắc thể được đưa vào IES có nhiều khả năng phát triển thành phôi nang khả thi hơn. Về số lượng phôi được tạo ra bằng IES ngày càng tăng, quy trình này có thể được sử dụng cho những người đáp ứng kém với số lượng noãn hoặc phôi thấp. Theo đó, việc đánh giá tiềm năng phát triển của phôi sử dụng IES ở những người đáp ứng kém nên được thực hiện trong các nghiên cứu trong tương lai.
Tài liệu tham khảo: Marjan OMIDI, Mohammad Ali KHALILI, Azam AGHA-RAHIMI và cộng sự. Efficacy of the in vitro splitting of human preimplantation embryos from ART programs. Turkish Journal of Medical Sciences. 2021.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Chuyển phôi nang đông lạnh bằng thủy tinh hóa ngày 5 so với ngày 6 trong chu kỳ xin noãn - Ngày đăng: 22-06-2021
Ảnh hưởng của chất lượng phôi ngày 3 và ngày 5/6 đến kết quả lâm sàng trong các chu kỳ chuyển đơn phôi rã đông sau thuỷ tinh hoá - Ngày đăng: 22-06-2021
Thai lâm sàng sau khi loại bỏ phân mảnh phôi trước khi chuyển phôi tươi giai đoạn phôi phân chia. - Ngày đăng: 20-06-2021
Đo mức độ phân mảnh DNA tinh trùng trước khi điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 20-06-2021
Tiếp xúc với ánh sáng phát ra từ các thiết bị điện tử vào ban đêm có liên quan đến sự suy giảm chất lượng tinh trùng và chất lượng giấc ngủ - Ngày đăng: 18-06-2021
Tác động của thời gian từ lúc chọc hút noãn đến khi ICSI lên sự phát triển của phôi và kết quả điều trị: Một nghiên cứu tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 18-06-2021
Lấy mẫu tinh dịch tại nhà không ảnh hưởng đến kết quả điều trị IVF/ ICSI - Ngày đăng: 18-06-2021
Tỷ lệ thu nhận tinh trùng và kết quả lâm sàng ở các nhóm bệnh nhân vô sinh nam do nhiều nguyên nhân khác nhau điều trị micro-TESE-ICSI - Ngày đăng: 16-06-2021
Béo phì loại 3 và loại 4 có tác động như thế nào đến kết quả điều trị IVF? - Ngày đăng: 17-06-2021
Tác động của các đại thực bào trong tinh dịch lên chất lượng tinh trùng - Ngày đăng: 17-06-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK