Tin tức
on Monday 07-12-2020 10:00am
Danh mục: Tin quốc tế
Nguyễn Thị Cẩm Nhung – Chuyên viên phôi học – IVFMD Tân Bình
Lạc nội mạc tử cung là một bệnh mãn tính được xác định bởi sự hiện diện của các tế bào nội mạc phát triển ngoài buồng tử cung (1, 2) thường gặp khoảng 5% đến 15% phụ nữ ở độ tuổi sinh sản, và 30% đến 50% ở phụ nữ vô sinh (5-7). Một số nghiên cứu cho thấy rằng phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung có kết quả phôi và kết cục lâm sàng kém hơn so với những bệnh nhân khác khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) (8). Nguyên nhân có thể do chất lượng noãn bào kém, sự thay đổi thành phần trong dịch nang hoặc sự suy giảm khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung. Stress oxy hóa và sự gia tăng các gốc tự do cũng có thể dẫn đến tổn thương noãn bào, làm suy giảm khả năng phát triển phôi, ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng (9, 10).
Vào năm 2017, Juneau và công sự (11) đã tìm cách xác định xem tỷ lệ phôi lệch bội có cao hơn ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung hay không. Kết quả cho thấy khi so sánh với nhóm bệnh nhân cùng độ tuổi, bệnh nhân lạc nội mạc tử cung có tỷ lệ phôi lệch bội tương tự nhóm bệnh nhân không bị lạc nội mạc tử cung. Một số nghiên cứu khác đã chỉ ra lạc nội mạc tử cung có thể làm thay đổi khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung hoặc làm gián đoạn tín hiệu của estrogen và progesterone trên các thụ thể tại chỗ dẫn đến việc làm tổ thất bại (12, 13). Tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ thai lâm sàng thấp hơn ở những bệnh nhân lạc nội mạc tử cung đã được ghi nhận trên nhiều nghiên cứu lâm sàng, nhưng những nghiên cứu này vẫn còn nhiều mâu thuẫn (2, 4, 6, 14). Tỷ lệ làm tổ và thai lâm sàng ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung cũng khác nhau giữa chu kỳ chuyển phôi tươi so với chuyển phôi trữ. Một số nghiên cứu đã chứng minh tỷ lệ mang thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống cao hơn khi chuyển phôi trữ so với phôi tươi (3, 15–18).
Mục đích chính của nghiên cứu này là kiểm tra xem khả năng sinh sản ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung có bị ảnh hưởng do suy giảm khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung trong chu kỳ chuyển phôi trữ phôi nang nguyên bội (FET) hay không? Mục đích thứ hai là đánh giá xem liệu tỷ lệ phôi lệch bội có cao hơn ở những bệnh nhân bị lạc nội mạc tử cung đã được phẫu thuật hay không?
Thiết kế nghiên cứu: Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên bệnh nhân chuyển phôi trữ từ tháng 1/2016 đến tháng 3/2018. Bệnh nhân được chia làm ba nhóm: (1) bệnh nhân lạc nội mạc tử cung đã được phẫu thuật; (2) Bệnh nhân điều trị TTTON không bị lạc nội mạc thực hiện sinh thiết phôi; (3) Bệnh nhân vô sinh do yếu tố nam. Phôi được theo dõi tới giai đoạn phôi nang, sinh thiết TE để thực hiện xét nghiệm PGT-A và chuyển phôi trữ ở chu kỳ tiếp theo.
Kết quả: Tổng cộng có 459 chu kỳ chuyển phôi trữ với phôi nang nguyên bội trên 328 bệnh nhân. Không có sự khác biệt về tỷ lệ thai lâm sàng, sẩy thai hoặc sinh sống ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung so với cả hai nhóm chứng. Tỷ lệ lệch bội thấp nhất trong xét nghiệm PGT-A cho các bệnh rối loạn đơn gen; bệnh nhân lạc nội mạc tử cung có tỷ lệ lệch bội tương tự như ở bệnh nhân vô sinh do yếu tố nam.
Kết luận: Vẫn chưa có cơ sở chắc chắn rằng lạc nội mạc tử cung ảnh hưởng đến kết quả thụ tinh trong ống nghiệm thông qua chất lượng noãn bào hay nội mạc tử cung. Nhóm nghiên cứu đã chứng minh không có sự khác biệt về kết quả thai lâm sàng ở bệnh nhân lạc nội mạc tử cung so với bệnh nhân vô sinh do yếu tố nam và bệnh nhân thực hiện PGT-M trên chu kỳ chuyển phôi trữ phôi nang nguyên bội.
Nguồn: Bishop, L. A., J. Gunn, S. Jahandideh, K. Devine, A. H. Decherney, M. J. J. F. Hill & sterility (2020) Endometriosis does not impact live-birth rates in frozen embryo transfers of euploid blastocysts. https://doi.org/10.1016/j.fertnstert.2020.07.050
Các tin khác cùng chuyên mục:
Bảo tồn sinh sản nam giới khi bị ung thư - Ngày đăng: 07-12-2020
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 07-12-2020
Cần sa và khả năng sinh sản ở nam giới: một tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 01-12-2020
Nhận thức của bệnh nhân vô sinh về ảnh hưởng của cần sa lên khả năng sinh sản - Ngày đăng: 01-12-2020
Methyl hóa DNA – marker của tiền sử tiếp xúc với khói thuốc lá trước khi sinh ở người trưởng thành - Ngày đăng: 01-12-2020
Phôi người có cơ chế tự sửa sai hay không? - Ngày đăng: 01-12-2020
Ứ mật trong gan thai kỳ - Ngày đăng: 01-12-2020
Mối tương quan giữa động học hình thái phôi và sự biểu hiện gen trên tế bào cumulus với kết quả điều trị của bệnh nhân PCOS - Ngày đăng: 01-12-2020
Nguy cơ sẩy thai tăng khi bố lớn tuổi - Ngày đăng: 01-12-2020
Mối liên quan giữa việc hút thuốc của người mẹ khi mang thai với đặc điểm tinh dịch và nồng độ hormone sinh sản của đời con - Ngày đăng: 30-11-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK