Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 22-09-2020 12:56pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

CNSH. Phan Thị Nhật Vy – Chuyên viên phôi học IVFAS


Trữ lạnh tinh trùng trước khi bắt đầu xạ trị hoặc hóa trị là một phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản hiệu quả cho nam giới. Tuy nhiên vẫn còn nhiều thiếu sót trong việc tư vấn bệnh nhân ung thư về ảnh hưởng của các liệu pháp điều trị đến chất lượng tinh trùng. Do đó bệnh nhân không được thông báo, hoặc là chấp nhận trữ lạnh tinh trùng trước khi tiến hành điều trị. Liệu pháp gây độc tế bào trong điều trị ung thư có thể dẫn đến vô tinh (azoospermia) nếu đợi cho đến khi điều trị xong. Do đó bệnh nhân cần phải sử dụng tinh trùng trong giai đoạn điều trị và có nguy cơ di truyền các tổn thương ở tinh trùng sang thể hệ sau. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của các chất xạ trị/ hóa trị trên tinh trùng người và khả năng di truyền sang thế hệ sau vẫn còn hạn chế. Các nghiên cứu chủ yếu thực hiện trên động vật.
  1. Các nhóm chất điều trị ung thư
Các chất sử dụng cho hóa trị được chia làm 5 nhóm chất: nhóm chất alkyl hóa, chất ức chế topoisomerase, yếu tố gây rối loạn vi ống, yếu tố làm đứt gãy mạch DNA và chất chống chuyển hóa và đồng phân nucleoside. Ảnh hưởng sau điều trị rất đa dạng tùy thuộc vào loại phương pháp sử dụng, chất sử dụng trong từng nhóm, …
  1. Ảnh hưởng của điều trị ung thư trên mô hình động vật
Độ nhạy của tế bào trong từng giai đoạn sinh tinh đối với từng nhóm thuốc sẽ khác nhau. Tinh trùng và tinh tử nhạy cảm với nhóm chất alkyl hóa, tinh nguyên bào bị đột biến bởi chất ức chế topoisomerase, tế bào mầm tinh trùng bị đột biến bởi nhóm đồng phân nucleoside.
  1. Đột biến điểm
Ở các vùng trình tự lặp lại, có xảy ra đột biến tuy nhiên những đột biến này là trung tính và ít ảnh hưởng đến sức khỏe và không được coi là nguy cơ đối với thế hệ sau. Đặc biệt ở vùng đầu mút nhiễm sắc thể (telomere) là một trình tự lặp lại, chiều dài vùng đầu mút giảm 22% sau 9 tuần điều trị hóa trị. Khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm, tinh trùng có chiều dài đầu mút ngắn có tương quan với chất lượng phôi giảm.
  1. Bất thường nhiễm sắc thể
Các nhóm chất đồng phân nucleoside, chất ức chế topoisomerase dẫn đến lệch bội giai đoạn giảm phân 2. Tế bào tinh trùng chuột, tinh nguyên bào tiếp xúc với chất ức chế topoisomerase dẫn đến bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể mức độ cao và lệch bội mức độ trung bình trong khi tế bào mầm sinh tinh không bị ảnh hưởng.
  1. Nguy cơ sẩy thai
Những đột biến cấu trúc và số lượng nhiễm sắc thể ở tinh trùng sau khi thụ tinh phát triển thành phôi có thể dẫn đến sẩy thai sau khi phôi làm tổ, tuy không di truyền đến thế hệ sau nhưng gây căng thẳng về mặt tinh thần và làm chậm khả năng sinh sản của một cặp vợ chồng.
  1. Chuyển đoạn nhiễm sắc thể ở thế hệ sau
Mặc dù hầu hết các bất thường nhiễm sắc thể đều gây chết người nhưng chuyển đoạn tương hỗ không làm mất vật liệu di truyền thì đời con có thể sống nhưng vô sinh hoặc giảm khả năng sinh sản. Các nhóm tác nhân alkyl hóa và xạ trị làm tăng tỉ lệ chuyển đoạn nhiễm sắc thể khi tiếp xúc với tinh trùng và tinh tử. Tế bào mầm tinh trùng không nhạy cảm với các tác nhân hóa trị nhưng tác nhân xạ trị vẫn ảnh hưởng đến tỉ lệ chuyển đoạn nhiễm sắc thể.
  1. Kiểu hình bất thường ở thế hệ sau
Liệu pháp xạ trị làm tăng tỉ lệ bất thường về xương và đục thủy tinh thể mắt ở các thế hệ sau. Tiếp xúc với chất cyclophosphamide ở giai đoạn tế bào mầm sinh tinh hoặc tinh trùng tạo ra thế hệ sau có biểu hiện giảm phát triển các kỹ năng hành vi.
  1. Dữ liệu trên người sau liệu pháp gây độc tế bào điều trị ung thư
Thông tin về kết quả mang thai khi người chồng đang hoặc sau khi điều trị rất hạn chế. Trong số 13 trường hợp mang thai ghi nhận 9 trường hợp sinh con bình thường, 1 trường hợp sẩy thai ở tháng thứ 3, 1 trẻ chết lưu khi 8 tháng, 1 trẻ chậm phát triển trong tử cung và 1 trẻ bị lác. Tuy nhiên số liệu ít nên kết quả này không được coi là khác biệt đáng kể so với kết quả đối chứng.

Tinh trùng người tiếp xúc với hóa trị làm gia tăng tỉ lệ lệch bội từ 3 – 6 lần. Nghiên cứu Frias và cộng sự cho thấy 9,3% tinh trùng tiếp xúc với hóa trị có bất thường về cấu trúc nhiễm sắc thể. Tổng cộng 18% tinh trùng bị dị tật, dẫn đến phôi không phát triển hoặc sẩy thai.

Ảnh hưởng lên tinh trùng người cũng như thế hệ sau phụ thuộc vào nhóm chất điều trị và thời gian điều trị. Đối với nhóm chất alkyl hóa, nguy cơ tổn thương tinh trùng có thể cao ngay sau 1 ngày điều trị, và tăng liên tục các loại đột biến và gây bất thường kiểu hình. Xạ trị có nguy cơ gây ra tổn thương di truyền nếu thực hiện hằng ngày. Các chất chống chuyển hóa và đồng phân nucleoside cho thấy ít rủi ro hơn mặc dù chất 5 –FU dẫn đến phôi bất thường nhiễm sắc thể nhưng không ảnh hưởng sẩy thai đáng kể sau khi làm tổ. Nhóm chất gây rối loạn vi ống, sau 5 tuần điều trị cho thấy gây lệch bội ở giai đoạn giảm phân tuy nhiên ảnh hưởng của nó còn chưa chắc chắn.

Do đó cần cung cấp đầy đủ thông tin để tư vấn bệnh nhân trước khi tiến hành liệu pháp gây độc tế bào điều trị ung thư giúp bệnh nhân nhận thức được nguy cơ và rủi ro về ảnh hưởng của liệu pháp đến khả năng di truyền cho thế hệ sau.

Nguồn: Meistrich ML (2020). Risks of genetic damage in offspring conceived using spermatozoa produced during chemotherapy or radiotherapy. Andrology, 8(3), 545-558.

Các tin khác cùng chuyên mục:
Stress khi mang thai và thai chết lưu - Ngày đăng: 27-03-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK