Tin tức
on Tuesday 01-09-2020 2:48pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Nguyễn Thị Ngọc Huệ - IVFMD Bình Dương
Thể vùi (RF- refractile bodies) hay còn gọi là thể khúc xạ là một trong những bất thường hình thái bên trong bào tương noãn. Thể vùi chứa chủ yếu là các lipid và các hạt vật chất dày đặc, được xem là có mối tương quan với stress oxy hóa hoặc bất thường trong quá trình chuyển hóa lipid ở noãn (P. Fancsovits, 2012). Một số báo cáo cho thấy sự xuất hiện thể vùi ở noãn sẽ liên quan đến tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ phát triển phôi và tỉ lệ làm tổ thấp hơn so với các noãn bình thường (Otsuki J, 2007). Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá mối tương quan giữa noãn có thể vùi đến tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ phôi và tỉ lệ làm tổ trong ICSI.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện trên 3085 noãn trưởng thành, noãn có sự hiện diện của RF đường kính ≥5 µm được ký hiệu là RF (+), RF có đường kính <5 µm được ký hiệu là RF (-). Trong 3085 noãn, 648 (21%) noãn RF (+), 241 noãn MII phát triển từ noãn non (7,8%) và tỉ lệ RF (+) là 16,6%. Các noãn ở giai đoạn MI chỉ được sử dụng ICSI khi chúng đạt đến độ trưởng thành ở giai đoạn MII trong vòng 8 giờ sau khi lấy noãn (MII chậm).
Kết quả cho thấy:
- Không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ hình thành 2PN ở noãn RF (+) và RF (-), tương ứng76,5% và 77,2%. Tỉ lệ 1PN tương ứng là 2,2% ở noãn RF (+) và 2,4% ở noãn RF (-), tỉ lệ hình thành 3PN cũng không có sự khác biệt đáng kể.
- Tỉ lệ hình thành phôi vào ngày 5 ở noãn RF (+) là 45,8%, thấp hơn đáng kể so với 52,2% ở noãn RF (-) (p = .011). Không có sự khác biệt ở tỉ lệ phôi nang ngày 6 ở nhóm RF (+) và RF (-), tương ứng 10,5% và 9,6%.
- Tỷ lệ làm tổ ở phôi phát triển từ noãn RF (+) thấp hơn đáng kể (24,2%) so với RF (-) (42,2%) (aOR 0,46, KTC 95% 0,26‐0,78, P = 0.005).
- Tỉ lệ làm tổ của phôi chất lượng tốt phát triển từ noãn RF (+) thấp hơn đáng kể so với RF (-), tương ứng 28.6% và 46.1% (aOR 0.50, 95% CI 0.25‐0.96, P = 0.043).
Như vậy, các kết quả từ nghiên cứu cho thấy noãn có sự hiện diện của thể vùi đường kính ≥5 µm có khả năng phát triển thành phôi nang thấp hơn, kể cả khi các noãn này phát triển thành phôi nang có chất lượng tốt thì tỉ lệ làm tổ vẫn giảm so với noãn có đường kính thể vùi <5 µm.
Nguồn: Hiromi Takahashi và cs., (2019). Clinical outcomes of MII oocytes with refractile bodies in patients undergoing ICSI and single frozen embryo transfer, Reproductive Medicine and Biology. DOI: 10.1002/rmb2.12305
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tỷ lệ trẻ sinh sống từ những trường hợp noãn không xuất hiện tiền nhân vào thời điểm kiểm tra thụ tinh - Ngày đăng: 01-09-2020
Ăn hải sản trong thai kì có thể cải thiện khả năng chú ý của trẻ sau này - Ngày đăng: 01-09-2020
Sử dụng rượu bia trong thai kỳ - Ngày đăng: 01-09-2020
Quan hệ tình dục giúp tăng tỷ lệ đậu thai trong chu kì thụ tinh trong ống nghiệm? - Ngày đăng: 01-09-2020
Có nên quan hệ tình dục trong quá trình điều trị IVF? - Ngày đăng: 01-09-2020
Những thay đổi và ảnh hưởng quanh thai kỳ của u xơ cơ tử cung - Ngày đăng: 01-09-2020
Pantoprazole: chất ức chế bơm proton, làm suy giảm khả năng di động và dung hợp của tinh trùng người trong in vitro - Ngày đăng: 01-09-2020
Đánh giá virus Sars-Cov-2 trong sữa mẹ - Ngày đăng: 01-09-2020
Sự phát triển nang noãn và vai trò của YAP1 cùng con đường tín hiệu hồi hải mã - Ngày đăng: 01-09-2020
Mối liên hệ giữa yếu tố tăng trưởng giống insulin (IGF-1) và hiện tượng đáp ứng buồng trứng kém trong điều trị hiếm muộn - Ngày đăng: 01-09-2020
Hoạt động của nội tiết thuộc nhóm androgen trên đối tượng bệnh nhân vô sinh không rõ nguyên nhân - Ngày đăng: 31-08-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK