Trước đây đã có báo cáo cho thấy những trẻ điều trị với caffeine sẽ có tỉ lệ mắc loạn sản phế quản phổi thấp hơn những trẻ không dùng caffeine, tuy nhiên những hậu quả tiềm ẩn có hại về phát triển thần kinh của việc sự việc sử dụng methylxanthine cần được theo dõi bằng những nghiên cứu dài hạn.
Trong một nghiên cứu đăng tải trên tạp chí New England Journal of Medicine tháng 11/2007, các tác giả báo cáo một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đa trung tâm về sử dụng caffeine cho trẻ sinh non được theo dõi liên tục từ 18 đến 21 tháng. Những trẻ sơ sinh tham gia nghiên cứu này có cân nặng từ 500 g đến 1250 g và có nhu cầu sử dụng methylxanthine trước 11 ngày tuổi (n = 2006). Các trẻ này đều nhận liều khởi đầu là 20 mg/kg caffeine và liều duy trì là 5 mg/kg/ngày (tăng liều duy trì đến 10mg/kg/ngày nếu liều 5mg/kg/ngày không tạo đủ đáp ứng lâm sàng).
Trong nghiên cứu này, các tác giả quan tâm chủ yếu đến tỷ lệ chết hoặc các hậu quả phát triển khác lúc 18 tháng tuổi (“hậu quả chính”). Những hậu quả có hại khác được quan tâm đến là bại não, mất thính lực, tổn thương nhận thức, hay mù hai mắt. Mỗi hậu quả được xác định mức độ hoạt động chức năng bằng các biện pháp đo lường tiêu chuẩn và đã được công nhận. Ví dụ, trì trệ nhận thức được định nghĩa là thể hiện 1 độ lệch chuẩn dưới trung bình theo thang điểm Bayley về phát triển sơ sinh III.
Mặc dù mục tiêu nghiên cứu là khảo sát trẻ lúc 18 tháng tuổi nhưng các tác giả đã cho phép kiểm tra đến 21 tháng tuổi. Từ nghiên cứu đoàn hệ ban đầu, 1869 (93%) có số liệu về các hậu quả trong nghiên cứu này. Hậu quả kết hợp của “chết hoặc tổn thương phát triển thần kinh” xảy ra nhiều hơn ở trẻ nhóm giả dược là 46,2% so với 40,2% của những trẻ được điều trị với caffeine. Kết quả này có nghĩa rằng cứ 16 trẻ được điều trị với caffeine thì có 1 trẻ phòng ngừa được tử vong hay biến chứng thần kinh.
Khi xem xét một cách chi tiết thì sự khác nhau về tỷ lệ tử vong (6,4% nhóm sử dụng caffeine, 6,5% nhóm giả dược), điếc (1,9% và 2,4%), mù (0,7% và 0,9%) và trì trệ nhận thức (38,2% và 33,8%) giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên tỷ lệ bại não trong nhóm chứng với tỷ lệ 7,4% cao hơn so với nhóm sử dụng caffeine là 4,4%, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR 0,59, KTC 95% 0,39-0,89).
Các tác giả đã kiểm tra những biến số lâm sàng để xác định những lợi ích ngắn hạn nào của caffeine có tương quan với lợi ích lâu dài về hậu quả kết hợp “tỷ lệ tử vong hay biến chứng thần kinh.” Tóm tắt lại, giảm thời gian cần áp lực đường thở dương có tương quan mạnh nhất với mức độ giảm hậu quả chính.
Các tác giả kết luận rằng việc sử dụng caffeine ở trẻ sơ sinh có cân nặng rất nhẹ lúc sinh cải thiện tỉ lệ sống sót mà không gây ra biến chứng thần kinh hay tử vong.
(Theo Medscape. Nguồn: N Engl J Med 2007;357:1893-1902)
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...